TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN IA H’DRAI, TỈNH KON TUM
BẢN ÁN 06/2024/HS-ST NGÀY 31/01/2024 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 31 tháng 01 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện D, Tòa án nhân dân huyện D đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 06/2024/TLST-HS ngày 16/01/2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2024/QĐXXST - HS ngày 19 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:
Trần Duy B. Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 30 tháng 04 năm 1976 tại:
tỉnh QB. Nơi ĐKHKTT: Thôn T, xã Đ, huyện ĐH, tỉnh K; Nghề nghiệp: Công nhân cao su; Trình độ văn hóa: 05/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Đình C (đã chết) và bà Cao Thị P, sinh năm: 1942. Hiện làm nông và sinh sống tại xã Q, huyện Q, tỉnh QB; Chung sống như vợ chồng với chị Trương Thị G, sinh năm 1972, có 01 con chung tên là Trương Duy H, sinh năm 2011. Hiện cả hai sinh sống tại thôn T, xã Đ, huyện ĐH, tỉnh K. Gia đình bị cáo có 07 (bảy) anh chị em, bị cáo là con thứ tư trong gia đình. Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 29/09/2011 bị Tòa án nhân dân huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum xử phạt 09 (chín) tháng tù về tội “Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng” theo Bản án số 25/2011/HSST ngày 29/09/2011. Đến ngày 25/05/2012 chấp hành xong án phạt tù và về địa phương sinh sống. Bị cáo đã chấp hành xong án phí hình sự theo bản án trên, đã được xoá án tích. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 27/11/2023 đến nay - Có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1976. Nơi cư trú: Thôn 3, xã I, huyện I, tỉnh K. (Có mặt).
- Người làm chứng:
1. Ông Ngô Trí T, sinh năm 1977. Nơi cư trú: Thôn 4, xã I, huyện Ia, tỉnh K (vắng mặt có lý do).
2. Ông Trần Danh H, sinh năm 1977. Nơi cư trú: Thôn 4, xã I, huyện I, tỉnh K (vắng mặt có lý do).
3. Ông Huỳnh Tấn P, sinh năm 1983. Nơi cư trú: Thôn 3, xã Ia, huyện I, tỉnh K (vắng mặt có lý do).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 22 giờ ngày 03/01/2023 Trần Duy B (Sinh năm: 1976, trú tại thôn 3, xã Ia Đal), Ngô Trí T (Sinh năm: 1977), Trần Danh H (Sinh năm: 1977) cùng trú tại thôn 4, xã I ngồi nhậu và hát Karaoke tại nhà ông Lê Hồng K (Sinh năm:
1978, trú tại thôn 3, xã l, huyện I, tỉnh K) thuộc thôn 3, xã I. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày các đối tượng trên rủ nhau đi đánh Bida, lúc này K điều khiển xe mô tô đi trước, còn B, H, T ra lấy xe mô tô và đứng nói chuyện to, ồn ào tại khu vực trước nhà ông Nguyễn Văn T (Sinh năm: 1976, trú tại thôn 3, xã I, huyện I, tỉnh K). Nghe thấy ồn ào ông Thể ra phản ánh, nhắc nhở các đối tượng trên và nói “Anh em đi về đi, mai tôi còn đi làm”, nghe vậy B nói lại “Tôi ở đây chứ ở gì nhà ông”. Lúc này giữa ông T và B có xảy ra cự cãi, to tiếng với nhau, sau đó ông T đi lại chỗ B đang đứng và có lời lẽ thô tục đối với B. Do bị ông T lăng mạ đồng thời trước đó đã uống rượu nên B không kiềm chế được bản thân và đã dùng tay trái rút con dao được dắt sẵn trên xe mô tô của mình chém một nhát từ trên xuống dưới, từ trái sang phải trúng vào vành tai bên phải, vùng cổ sau vành tai phải và vùng cổ phía dưới vành tai bên phải của ông T. Bị chém ông T la lên “Địt mẹ nó chém đầu tao rồi”, nghe vậy anh Huỳnh Tấn P (Sinh năm: 1983, HKTT: Thôn 3, xã I, huyện I, tỉnh K) chạy đến can ngăn thì thấy ông T tay ôm tai phải và có máu chảy nên về nhà lấy xe máy chở ông Thể đến Trạm Y tế xã Ia Đal, sau đó ông T được chuyển đến Trung tâm y tế huyện D để khâu và điều trị vết thương. Còn B, sau khi sự việc xảy ra thì đi về nhà. Vụ việc Cơ quan CSĐT – Công an huyện D thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền.
Ngày 10/01/2023 Cơ quan CSĐT - Công an huyện Ia H'Drai, tỉnh Kon Tum ra Quyết định trưng cầu giám định số 04/QĐ-CSĐT về việc trưng cầu giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể đối với ông Nguyễn Văn T. Tại Bản kết luận giám định pháp Y về thương tích số 14/TgT-TTPY ngày 13/01/2023 của Trung tâm pháp Y tỉnh Kon Tum, kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể của ông Nguyễn Văn T như sau: Vết thương mất 1/3 vành tai bên phải: 08%; Vết thương vùng cổ sau vành tai bên phải kích thước trung bình: 02%; Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể tại thời điểm giám định: 10%; Vật gây thương tích: Vật sắc.
Ngày 16/03/2023 Cơ quan CSĐT - Công an huyện Ia H'Drai, tỉnh Kon Tum ra Quyết định trưng cầu giám định lại lần thứ nhất số 01/QĐ-CSĐT về việc trưng cầu giám định lại tỷ lệ tổn thương cơ thể đối với ông Nguyễn Văn T. Tại bản kết luận giám định pháp Y về thương tích lần thứ nhất số 59/TgT-TTPY-GĐL ngày 24/03/202342 của Trung tâm pháp Y tỉnh Kon Tum, kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể của ông Nguyễn Văn T như sau: Sẹo khuyết da dưới 1/3 vành tai bên phải:
08%; Sẹo ở vùng đầu sau vành tai bên phải kích thước trung bình: 02%; Sẹo sướt da vùng cổ kích thước nhỏ: 02%; Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể tại thời điểm giám định: 11,64% làm tròn 12%; Vật gây thương tích: Vật sắc.
Nhận thấy, có sự khác nhau giữa kết luận giám định lần đầu và kết luận giám định lại cùng về một nội dung giám định, căn cứ khoản 3 Điều 211 Bộ luật Tố tụng hình sự, Cơ quan CSĐT - Công an huyện Ia H'Drai, tỉnh Kon Tum ra Quyết định trưng cầu giám định lại lần thứ hai số 02/QĐ-CSĐT ngày 26/04/2023 đến Phân viện Pháp Y Quốc gia tại thành phố Hồ Chí Minh về việc giám định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể đối với ông Nguyễn Văn T.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 113/2023/TgT ngày 12/06/2023 của Phân viện Pháp Y Quốc gia, kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể của ông Nguyễn Văn T như sau: Sẹo mất ít hơn 1/3 vành tai phải; Sẹo kích thước nhỏ vùng cổ sau vành tai phải; Sẹo kích thước nhỏ vùng cổ phía dưới vành tai phải. Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể tại thời điểm giám định: 12% (mười hai phần trăm); Vật gây thương tích: Vật sắc tác động trực tiếp gây ra.
Ngày 03 tháng 09 năm 2023 Cơ quan CSĐT-Công an huyện D, tỉnh Kon Tum ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can đối với Trần Duy B về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự. Tại Cơ quan CSĐT-Công an huyện D, tỉnh Kon Tum bị cáo Trần Duy B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình Tại Cáo trạng số 04/CT-VKS-D ngày 16 tháng 01 năm 2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện D đã truy tố bị cáo Trần Duy B về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo như Cáo trạng và đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 38; điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt: Bị cáo Trần Duy B từ 24 đến 30 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 27/11/2023.
Về trách nhiệm dân sự: Sau khi sự việc xảy ra bị cáo Trần Duy B đã đến nhà bị hại xin lỗi, thăm hỏi, động viên đồng thời bồi thường cho ông Nguyễn Văn T số tiền 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng) nhằm khắc phục một phần hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra, ông T có đơn không yêu cầu bồi thường dân sự gì thêm nên không đề cập.
Về xử lý vật chứng: 01 (một) con dao bằng kim loại, cán bằng gỗ đã qua sử dụng dài 40cm. Trong đó lưỡi dao màu nâu đen dài 25,4cm, đầu nhọn, chỗ rộng nhất rộng 04cm, cán dao dài 14,6cm màu nâu đen, đầu và cuối cán dao có khuy dao bằng kim loại màu bạc mà Trần Duy B dùng để chém vào vùng tai, cổ phía bên phải cho anh Nguyễn Văn T. Qua xác minh con dao là công cụ phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.
Đối với 01 (một) xe mô tô BKS: 81P7- xxxx nhãn hiệu HONDA, số máy: HC12E2186508, số khung: RLHHC12388Y439175 đã qua sử dụng. Cơ quan Điều tra xác minh, điều tra làm rõ chủ sở hữu là của Trần Duy B. Qua xác minh chiếc xe trên không liên quan đến vụ án. Do vậy, Cơ quan CSĐT- Công an huyện D đã ra quyết định xử lý đồ vật, tài liệu và trả lại xe mô tô nêu trên nên không đề cập.
Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
Tại phiên toà, bị cáo Trần Duy B thừa nhận hành vi phạm tội của mình và nhất trí với ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không ý kiến tranh luận gì. Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo đều không bị mớm cung, ép cung hay dùng nhục hình buộc phải nhận tội.
Bị hại là ông Nguyễn Văn T trình bày tại phiên tòa: Sau khi sự việc xảy ra, bị cáo cũng đã cảm thấy hối hận về hành vi của mình và đã bồi thường thiệt hại cho tôi với tổng số tiền là 15.000.000 đồng. Tôi đã nhận đủ số tiền và không yêu cầu bồi thường gì thêm. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo biết hành vi của mình là sai trái, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an huyện D, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên huyện D trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Tại phiên tòa, những người làm chứng là ông Ngô Trí T, ông Trần Danh H, ông Huỳnh Tấn P vắng mặt. Xét thấy, việc vắng mặt của những người làm chứng trên không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án, họ đã có giấy báo xin xét xử vắng mặt, có đầy đủ lời khai trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt họ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2] Tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Vào khoảng 23 giờ ngày 03/01/2023, tại thôn 3 xã I, huyện I, tỉnh K, do bực tức vì bị ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1976 lăng mạ và có lời lẽ thô tục đối với mình nên bị cáo Trần Duy B đã lấy một con dao có sẵn trên xe mô tô BKS 81P7-xxxx của bị cáo chém một cái từ trên xuống dưới, từ trái qua phải trúng vào vành tai bên phải, vùng cổ sau vành tai phải và vùng cổ phía dưới vành tai bên phải của ông Nguyễn Văn T dẫn đến hậu quả ông Nguyễn Văn T bị thương với tổng tỉ lệ tổn thương cơ thể là 12%. Con dao mà bị cáo Trần Duy B sử dụng gây thương tích cho ông Thể là “hung khí nguy hiểm”. Do đó, tổng hợp hành vi và hậu quả, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS, với tình tiết quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự như Cáo trạng số 04/CT-VKS ngày 16 tháng 01 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện D, tỉnh Kon Tum truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm hại đến sức khoẻ của người khác được pháp luật bảo vệ. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã đủ năng lực hành vi, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nhưng chỉ vì mâu thuẫn nhỏ mà bị cáo đã dùng hung khí gây thương tích cho bị hại 12%. Hành vi phạm tội của bị cáo, không chỉ trực tiếp xâm phạm sức khỏe của bị hại một cách trái pháp luật mà còn làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự xã hội, gây tâm lý hoang mang, bất bình trong quần chúng nhân dân. Bị cáo đã từng bị Tòa án nhân dân huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum xử phạt 09 (chín) tháng tù về tội “Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng”, tuy đã được xoá án tích nhưng bị cáo có nhân thân xấu, bị cáo không lấy đó làm bài học mà lại tiếp tục phạm tội. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo với đời sống xã hội một thời gian đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo trở đồng thời có tác dụng răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo; bị cáo đã bồi thường cho bị hại với số tiền 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng). Ngoài ra, bố mẹ ruột của bị cáo trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước được Nhà nước CHXHCN Việt Nam trao tặng Huân chương kháng chiến Hạng ba và Huân chương kháng chiến Hạng nhì; bị hại cũng có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cần áp dụng cho bị cáo.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 29/09/2011 bị cáo Trần Duy B bị Tòa án nhân dân huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum xử phạt 09 (chín) tháng tù về tội “Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng” theo bản án số 25/2011/HSST ngày 29/09/2011. Đến ngày 25/05/2012 chấp hành xong án phạt tù và về địa phương sinh sống. Bị cáo đã chấp hành xong án phí hình sự theo bản án trên. Căn cứ Điều 70 Bộ luật Hình sự, đến ngày phạm tội mới là ngày 03/01/2023 bị cáo Trần Duy B đương nhiên được xóa án tích. Do vậy, không được xem là tình tiết “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Do vậy, bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, bị cáo đã tự nguyện đứng ra bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm cho ông Nguyễn Văn T với tổng số tiền là 15.000.000đ (Mười lăm triệu đồng). Bị hại đã nhận đủ số tiền bồi thường, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xem xét.
[6] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 (một) con dao bằng kim loại, cán bằng gỗ đã qua sử dụng dài 40cm. Trong đó lưỡi dao màu nâu đen dài 25,4cm, đầu nhọn, chỗ rộng nhất rộng 04cm, cán dao dài 14,6cm màu nâu đen, đầu và cuối cán dao có khuy dao bằng kim loại màu bạc. Đây là con dao của bị cáo, là công cụ bị cáo dùng vào việc phạm tội, hiện không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp.
Đối với 01 (một) xe mô tô BKS: 81P7- xxxx nhãn hiệu HONDA, số máy: HC12E2186508, số khung: RLHHC12388Y439175 đã qua sử dụng. Qua xác minh chiếc xe trên không liên quan đến vụ án. Do vậy, Cơ quan CSĐT- Công an huyện D đã ra quyết định xử lý đồ vật, tài liệu và trả lại xe mô tô cho bị cáo nên không đề cập.
[7] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
- Tuyên bố bị cáo Trần Duy B phạm tội: “Cố ý gây thương tích”.
- Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Bị cáo Trần Duy B 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 27/11/2023.
- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) con dao bằng kim loại, cán bằng gỗ đã qua sử dụng dài 40cm. Trong đó lưỡi dao màu nâu đen dài 25,4cm, đầu nhọn, chỗ rộng nhất rộng 04cm, cán dao dài 14,6cm màu nâu đen, đầu và cuối cán dao có khuy dao bằng kim loại màu bạc (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/01/2024 của Công an huyện D với Chi cục thi hành án dân sự huyện D).
- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/ 2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016, của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Trần Duy B phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
- Căn cứ Điều 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (31/01/2024) bị cáo, bị hại có quyền làm đơn kháng cáo bản án để xin xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 06/2024/HS-ST
Số hiệu: | 06/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ia H'Drai - Kon Tum |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về