TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN BIÊN, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 05/2024/HS-ST NGÀY 18/01/2024 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 18 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 91/2023/TLST-HS ngày 04 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2024/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:
Trần Thanh P, sinh ngày 19 tháng 5 năm 1999 tại tỉnh T; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Ấp Đ, xã H, huyện B, tỉnh T; nghề nghiệp: làm mướn; trình độ văn hóa (học vấn): 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Thanh P1 và bà Phan Thị Lệ H; vợ, con: chưa có; tiền án: Bản án Hình sự sơ thẩm số 41/2020/HSST ngày 24/6/2020 của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh T xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự; Bản án Hình sự sơ thẩm số 26/2022/HS-ST ngày 24/5/2022 của Tòa án nhân dân Huyện C, tỉnh T xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 171 của Bộ luật Hình sự; tiền sự: Quyết định số 77/2018/QĐ-TA ngày 24/8/2018 của Tòa án nhân dân huyện T (nay là thị xã T), tỉnh T áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian 15 tháng; Quyết định số 11A/QĐ-XPHC ngày 29/12/2019 của Trưởng Công an xã T, huyện B, tỉnh T xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Quyết định số 394/QĐ- UBND ngày 19/8/2021 của Ủy ban nhân dân xã H, huyện B, tỉnh T áp dụng biện pháp giáo dục tại xã thời gian 03 tháng; bị bắt, tạm giam từ ngày 03/10/2023 đến nay; có mặt.
- Bị hại: ông Trần Thanh P1, sinh năm 1973, nơi cư trú: Ấp Đ, xã H, huyện B, tỉnh T; vắng mặt.
Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1997, nơi cư trú: Khu phố X, thị trấn T, huyện B, tỉnh T; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 16 giờ ngày 26/6/2023 tại ấp Đ, xã H, huyện B, tỉnh T, ông Trần Thanh P1 tổ chức uống rượu tại nhà cùng với Trần Thanh P, Nguyễn Văn C, Trần Trí T, sinh năm 1992, địa chỉ: Khu phố X, thị trấn T, huyện B, tỉnh T và Nguyễn Hoàng K, sinh năm 1991, địa chỉ: ấp K, xã N, thị xã T, tỉnh T. Đến khoảng 18 giờ 40 phút cùng ngày thì ngừng uống rượu và dọn dẹp. P đùa giỡn với anh T mạnh tay nên hai bên xảy ra mâu thuẫn cãi nhau. P vào trong nhà lấy 01 đoạn ống tuýp bằng kim loại dài 98 cm, đường kính 03 cm, cân nặng 0,7 kg đánh anh T nhưng không trúng. Ông P1 và anh C chạy đến can ngăn thì P tiếp tục dùng ống tuýp đánh nhiều cái trúng vào cơ thể của ông P1, anh C. Sau đó bà Phan Thị Lệ H đến ngăn cản thì P dừng lại và ném ống tuýp xuống nền đất. Ông P1 và anh C đã được đưa đến Trung tâm y tế huyện B, tỉnh T khám và điều trị.
Ngày 02/7/2023, anh Nguyễn Văn C, ông Trần Thanh P1 có đơn yêu cầu xử lý trách nhiệm hình sự đối với Trần Thanh P. Công an xã H đã chuyển nguồn tin về tội phạm cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T giải quyết theo thẩm quyền. Tại cơ quan điều tra, Trần Thanh P đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình.
Bản Kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 197/KLTTCT- TTPYTN ngày 14/8/2023 của Trung tâm Pháp y – Sở Y tế tỉnh T kết luận: tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Trần Thanh P1 tại thời điểm giám định là 01% (một phần trăm).
Bản Kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 195/KLTTCT- TTPYTN ngày 21/8/2023 của Trung tâm Pháp y – Sở Y tế tỉnh T kết luận: tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Nguyễn Văn C tại thời điểm giám định là 01% (một phần trăm).
Cáo trạng số 88/CT-VKSTB ngày 29 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo Trần Thanh P về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T giữ nguyên quan điểm truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Thanh P phạm tội “Cố ý gây thương tích”, đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 134; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 54 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Thanh P từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù đến 02 (hai) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”.
Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
Trách nhiệm dân sự: ông Trần Thanh P1, anh Nguyễn Văn C không yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Trần Thanh P thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố, bị cáo không có ý kiến tranh luận.
Bị cáo P nói lời sau cùng: xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến, không khiếu nại về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của bị cáo: khoảng 18 giờ 40 phút ngày 26/6/2023, tại nhà ông Trần Thanh P1, địa chỉ: ấp Đ, xã H, huyện B, tỉnh T. Trần Thanh P phát sinh mâu thuẫn với Trần Trí T, P đã dùng 01 đoạn ống tuýp bằng kim loại dài 98 cm, đường kính 03 cm, nặng 0,7 kg là hung khí nguy hiểm đánh anh T nhưng không gây thương tích. Cha ruột của P là ông Trần Thanh P1 và anh Nguyễn Văn C đến can ngăn thì bị P dùng ống tuýp đánh nhiều cái vào cơ thể. Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể của ông Trần Thanh P1, anh Nguyễn Văn C do thương tích gây nên hiện tại là 01%.
Hành vi của Trần Thanh P đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại Điều 134 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên bị áp dụng tình tiết định khung hình phạt “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 88/CT–VKSTB ngày 29/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh T truy tố bị cáo là có căn cứ.
[3] Tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: vụ án mang tính chất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ đồng thời gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Bị cáo là người thành niên, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức, điều khiển hành vi nhưng vì mâu thuẫn cá nhân, không kiềm chế được bản thân nên đã cố ý thực hiện tội phạm. Mặt khác, bị hại ông Trần Thanh P1 là cha ruột của bị cáo, anh Nguyễn Văn C là em rể của bị cáo. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội đối với người thân thích, nuôi dưỡng của mình.
[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.
[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra, truy tố, xét xử tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo đầy đủ, đúng sự thật những tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội đã thực hiện. Sau khi sự việc xảy ra, bị cáo đã khắc phục hậu quả tự nguyện đưa bị hại đi khám và điều trị tại cơ sở y tế; bồi thường thiệt hại thanh toán tiền chữa bệnh cho các bị hại; bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi quyết định hình phạt.
[6] Nhân thân: bị cáo có nhân thân xấu, nhiều lần bị kết án, bị xử lý vi phạm hành chính nhưng bị cáo không sửa chữa những sai phạm của mình.
[7] Hình phạt áp dụng: căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, xét thấy trong thời gian qua, tình trạng tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người khác diễn biến phức tạp, có xu hướng gia tăng, nhiều vụ việc nghiêm trọng xảy ra gây bức xúc trong dư luận xã hội. Vì vậy cần xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc đảm bảo tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa tội phạm. Căn cứ Điều 38 của Bộ luật Hình sự, áp dụng hình phạt tù có thời hạn cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, sống có ích cho gia đình và xã hội.
Trần Thanh P có hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự để quyết định mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đối với bị cáo.
[8] Trách nhiệm dân sự: bị cáo Trần Thanh P đã bồi thường thiệt hại thanh toán chi phí khám chữa bệnh cho bị hại ông Trần Thanh P1, anh Nguyễn Văn C. Bị hại ông P1, anh C không yêu cầu bồi thường thiệt hại thêm, Hội đồng xét xử ghi nhận.
[9] Biện pháp tư pháp: căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
- 01 đoạn ống tuýp bằng kim loại dài 98 cm, đường kính 03 cm, cân nặng 0,7 kg bên ngoài quấn băng keo đen là vật chứng công cụ, phương tiện phạm tội và không có giá trị sử dụng, Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy.
[10] Về án phí: căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo Trần Thanh P phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Trần Thanh P phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
- Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 134, các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 54 của Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Trần Thanh P 06 (sáu) tháng tù, thời gian chấp hành án phạt tù tính từ ngày 03/10/2023.
2. Biện pháp tư pháp: căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) đoạn ống tuýp bằng kim loại dài 98 cm, đường kính 03 cm, cân nặng 0,7 kg bên ngoài quấn băng keo đen.
(Vật chứng đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T và có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/11/2023) 3. Về án phí: căn cứ các điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Trần Thanh P phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 05/2024/HS-ST
Số hiệu: | 05/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tân Biên - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về