TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
BẢN ÁN 05/2023/HS-PT NGÀY 06/02/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 06 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 97/2022/TLPT-HS ngày 06 tháng 10 năm 2022 đối với bị cáo Võ Văn C, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 31/2022/HS-ST ngày 18 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Bị cáo có kháng cáo Võ Văn C, sinh ngày 20-12-1999, tại tỉnh Quảng Trị; nơi cư trú: Thôn H, xã P, huyện L, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên Chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn H, sinh năm 1972 và bà Mai Thị T, sinh năm 1975; vợ con: chưa có; tiền án, tiền sự: Không có; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 20 giờ ngày 05-8-2021, Trương Trọng T mời một số người bạn gồm Võ Văn C, Mai Phước T1, Lê Thiện N, Lê Nguyên Đ, Hoàng Minh M1, Nguyễn Đăng T2 và Nguyễn Đăng T3 đến quán nhậu 368 thuộc thôn Đ, xã P, huyện Đ, tỉnh Thừa Thiên Huế ăn nhậu mừng sinh nhật của T1. Thời điểm này, trong quán có hai bàn nhậu khác gồm của Nguyễn Đức Vĩnh P và Nguyễn Hữu Việt T4 và bàn của nhóm Nguyễn Hữu Quang H, Lê Văn M2, Cái Văn D và Nguyễn Như Phú N.
Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, khi P và T4 lấy xe ra về thì T4 ngồi trên xe mô tô, hướng ống pô xe về phía hai bàn đang ăn uống rồi nổ máy, rú ga liên tục. Bức xúc về hành vi trên, T1, C, N, Đ, M1, T2, T3, Huy, M2 và D đã lao vào đánh T4 và P. Sau khi được mọi người can ngăn, T4 và P bỏ chạy vào quán nhậu S đối diện với quán 368, còn nhóm của C cũng ra về.
Khi Lê Nguyên D, Hoàng Minh M1 và Võ Văn C đang đứng trên đường Quốc lộ 49B ngay trước cổng Quán 368 đợi những người khác lấy xe mô tô ra về thì Nguyễn Hữu Việt T4 lấy hai con của quán S lao ra đuổi đánh Đ, M1 và C nhưng không đuổi kịp; T4 liền ném một con dao về phía nhóm của C nhưng không trúng ai. Trương Trọng T thấy vậy chạy đến can ngăn và đẩy T4 về phía cầu V. Trong lúc T đang can ngăn T4 thì Nguyễn Đức Vĩnh P lấy của quán S một cây kéo rồi chạy ra đường Quốc lộ 49B thì gặp Nguyễn Đăng T2 vừa điều khiển xe mô tô từ trong quán 368 ra, P dùng kéo đâm vào lưng T2 làm T2 ngã vào hàng rào. Ngay lúc đó, T4 cũng chạy đến dùng dao chém vào vai trái của T2. Thấy vậy, M, T1, Đ, N, M, H liền đuổi đánh T4 thì T4 bỏ chạy vào quán S. Khi đang tham gia đuổi đánh T4 thì N bị P dùng kéo đâm trúng ở lưng nên N la to “hắn có kéo” rồi cùng với H và D quay sang đuổi đánh P về phía cầu V. Đến ngang chân cầu, H dùng chân đạp P ngã xuống đường; sau đó, N, H và D không đuổi theo nữa mà quay về chỗ nhóm bạn đang đứng trước cổng quán 368.
Khi N, H và D quay về, Võ Văn C nhặt một khúc tre đường kính khoảng 04 cm, dài khoảng 02 m chạy đuổi theo P lên trên cầu V thì đuổi kịp. C dùng khúc tre nhắm về phía Phúc đánh xuống 02 cái, P đưa tay trái lên đỡ nên bị thương ở tay. Sau khi đánh xong, C ném đùi tre về phía bụi cây bên cầu rồi quay về đưa T3 đi cấp cứu.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về tổn thương cơ thể số: 388-21/TgT ngày 27-9-2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh Thừa Thiên Huế kết luận về tỷ lệ tổn thương cơ thể của Nguyễn Đức V Phúc như sau:
1. Dấu hiệu chính qua giám định:
Vết sẹo phẫu thuật gãy thân xương trụ mặt sau cẳng tay trái: 02%.
Chấn thương gãy 1/3 trên thân xương trụ trái và trật khớp đầu trên xương quay để lại di chứng hạn chế gấp duỗi khớp khuỷu trái: 15%.
Chấn thương phần mềm vùng đỉnh đầu phải để lại sẹo không ảnh hưởng chức năng: 01%.
Chấn thương phần mềm vùng đầu trán trái để lại sẹo không ảnh hưởng chức năng: 01%.
2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể hiện tại là: 18% (Mười tám phần trăm).
3. Vật gây: Chấn thương cẳng tay trái do vật tày, vùng đầu do vật tày có cạnh.
Về vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P đã thu giữ gồm:
- 01 (một) con dao kim loại màu đen, liền khối dài 40 cm, lưỡi dao bản rộng nhất 07 cm, cán dao được cuộn tròn.
- 01 (một) con dao có chiều dài tổng thể 28 cm, cán bằng gỗ dài 11,5 cm có hai chốt tròn màu vàng đồng cố định lưỡi dao, lưỡi dao dài 16,5 cm có khắc chìm ký hiệu “KIWI BRAND MADEIN THAILAND”.
- 01 (một) cây kéo dài 14,5 cm, lưỡi bằng kim loại màu trắng có khắc chìm dòng chữ “STAIN LESS STEEL”, cán bằng nhựa màu vàng dài 11 cm, đã bị gãy một bên.
Đối với khúc tre C dùng đánh P, Cơ quan điều tra đã tiến hành truy tìm nhưng không thấy nên không thu giữ được do sau khi đánh, C đã ném về phía bụi cây bên cầu V, phía dưới là sông Ô Lâu.
Về trách nhiệm dân sự: Võ Văn C và anh Nguyễn Đức Vĩnh P đã thỏa thuận bồi thường dân sự là 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng); anh P đã nhận đủ số tiền trên và không yêu cầu gì thêm.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 31/2022/HS-ST ngày 18/8/2022 của Tòa án nhân dân huyện P đã quyết định: Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Võ Văn C: 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù; thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 26/8/2022, bị cáo Võ Văn C có đơn kháng cáo với nội dung xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Đơn kháng cáo của bị cáo là trong hạn luật định và hợp pháp; Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xử phạt bị cáo Võ Văn C 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù là có căn cứ, đúng pháp luật. Tại phiên tòa, bị cáo không cung cấp được chứng cứ, tài liệu gì mới để xem xét; do đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm a Khoản 1 Điều 355; Điều 256 Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Võ Văn C khai và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Bản án sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ căn cứ để xác định :
Khoảng 23 giờ 00 phút ngày 05-8-2021, tại thôn Đ, xã B, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế, Võ Văn C có hành vi đánh hai cái trúng vào tay trái gây tổn hại sức khỏe cho Nguyễn Đức Vĩnh P tỷ lệ 16,7% (tương đương 17%).
Khi thực hiện hành vi, bị cáo sử dụng khúc tre dài 02 m, đường kính 04 cm nên được xác định là “hung khí nguy hiểm”. Bị cáo gây thương tích cho bị hại một cách vô cớ bởi vì nguyên cớ nhỏ nhặt, bất đồng trong lúc sinh hoạt ăn nhậu tại nơi công cộng, bị hại không có mâu thuẫn với bị cáo và bị hại không gây thương tích cho chính bị cáo nhưng bị cáo sẵn sàng dùng vũ lực để giải quyết. Do đó, Tòa án nhân dân huyện P đã kết án bị cáo Võ Văn C về tội: “Cố ý gây thương tích” được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo Võ Văn C, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:
Bị cáo Võ Văn C là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, chỉ vì hành vi khiêu khích, đánh nhau của người khác, bị cáo đã đánh gây thương tích cho bị hại, phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm sức khỏe của người khác, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Vì vậy, cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Võ Văn C 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù là đã xem xét đầy đủ tính chất, mức độ hành vi của bị cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm được tài liệu gì mới để xem xét giảm nhẹ hình phạt nên Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận nội dung kháng cáo xin được hưởng ans treo của bị cáo. Do đó, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm như ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.
[3] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu theo luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Văn C và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
1. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tuyên bố bị cáo Võ Văn C phạm tội: “Cố ý gây thương tích”.
Xử phạt bị cáo Võ Văn C: 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù; thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
2. Về án phí: Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa 14, bị cáo Võ Văn C phải chịu án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).
3. Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 05/2023/HS-PT
Số hiệu: | 05/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thừa Thiên Huế |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/02/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về