Bản án về tội cố ý gây thương tích số 04/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIO LINH, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 04/2021/HS-ST NGÀY 09/03/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 09 tháng 3 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Gio Linh, xét xử sơ thẩm công kH vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 01/2021/TLST-HS ngày 08/01/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2021/QĐXXST-HS ngày 23/2/2021 đối với bị cáo: Lê Văn L, (tên gọi khác: không có), sinh ngày 29/9/1979 tại Quảng Trị; nơi ĐKNKTT và chỗ ở: thôn H, xã G, huyện G, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn M và con bà Nguyễn Thị M (đều đã chết); vợ: Lê Thị C và 04 con, con lớn nhất sinh năm 2002, con nhỏ nhất sinh năm 2014;

Tiền án: không; tiền sự: Ngày 26/8/2020, Công an thị trấn Gio Linh, huyện Gio Linh xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng các công cụ, phương tiện hoặc các vật dụng khác gây Th tích cho thành viên gia đình. Ngày 30/9/2020, Công an huyện Gio Linh xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/9/2020 đến nay, có mặt.

Bị hại:

1. Chị Lê Thị C, sinh năm 1980; trú tại: thôn H, xã G, huyện G, tỉnh Quảng Trị, có mặt.

2. Cháu Lê Văn Th, sinh ngày 15/12/2002; trú tại: thôn H, xã G, huyện G, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.

3. Cháu Lê Văn H, sinh ngày 03/11/2008; trú tại: thôn H, xã G, huyện G, tỉnh Quảng Trị, có mặt.

Người đại diện hợp pháp của bị hại Lê Văn H: Chị Lê Thị C (mẹ), sinh năm 1980; trú tại: thôn H, xã G, huyện G, tỉnh Quảng Trị.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại:

1. Bà Lê Đỗ Diệu H, Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Trị, là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại Chị Lê Thị C, có mặt.

2. Bà Lê Thị Bích L, Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Trị, là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại Lê Văn Th và Lê Văn H, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 12/9/2020, tại quán hủ tiếu Quảng Ngãi (địa chỉ: số 32 đường 2/4, khu phố 8, thị trấn G, huyện G, tỉnh Quảng Trị), Lê Văn L nảy sinh ý định dùng dây điện dí vào người của vợ là Chị Lê Thị C để ép chị C kH nhận đứa con thứ tư trong gia đình không phải con của mình và việc chị C có ngoại tình. Vào khoảng 12 giờ cùng ngày, L gọi chị C ra khu vực phòng tắm phía sau quán hủ tiếu rồi đi qua căn nhà bên cạnh (là nơi ở của L , thông với quán hủ tiếu bằng một lối đi) lấy một sợi dây điện màu vàng dài 6,8m loại 02 lõi, đầu sợi dây điện được cắt bằng để lộ phần lõi. Sau đó, L cắm một đầu dây điện vào ổ cắm gắn ở mặt sau tường ngang của quán hủ tiếu, đầu dây còn lại L cầm đi đến phòng tắm nơi chị C đang đứng. L hỏi chị C: “Thằng cu Heo là con của ai?” (cu Heo là con thứ tư, tên Lê Văn Gia B), chị C trả lời “Con của anh”, L nghe vậy liền dí đầu dây điện vào vùng tay, chân của chị C nhiều lần, mỗi lần dí điện khi đầu dây điện chạm vào người chị C thì L liền rút ra ngay. Chị C kêu cứu và van xin L đừng dí điện nữa thì L rút dây điện và đem cất ở góc nhà.

Khoảng 12 giờ ngày 13/9/2020, sau khi sử dụng ma túy xong, L lại lấy sợi dây điện trên ra rồi dùng kéo, tuốc nơ vít để gắn các phích cắm vào H đầu dây điện. Từ khoảng 13 giờ đến 16 giờ, L tiếp tục hành vi dùng dây điện dí vào người chị C, cụ thể: L cắm một đầu dây điện vào ổ điện ở mặt ngoài tường phía Đông của quán hủ tiếu, một đầu phích cắm còn lại L cầm trên tay đi đến khu vực giường ngủ nơi chị C đang ngồi rồi tiếp tục tra hỏi chị C việc ngoại tình, nhưng chị C không thừa nhận nên L dùng dây điện dí liên tiếp vào tay, chân của chị C vào các vị trí mà L đã dí vào người chị C trong ngày 12/9/2020, mỗi lần dí điện L liền rút ra ngay. Đêm 13/9/2020, vì quá hoảng sợ nên chị C đã trốn đi khỏi nhà.Lê Văn L có đi tìm kiếm chị C nhưng không tìm được.

Khoảng 14 giờ ngày 23/9/2020, sau khi sử dụng ma túy xong, L gọi các con của mình là Lê Văn Th (sinh năm 2002) và Lê Văn H (sinh năm 2008) vào trong nhà rồi đóng cửa lại. Th và H vào nhà và ngồi trên nền sát với giường ngủ ở phòng khách. L lấy sợi dây điện nêu trên cắm vào ổ điện phía Đông phòng lồi, một đầu còn lại L cầm đi đến ngồi gần Th và H rồi hỏi “Có biết mẹ ở mô không?”, Th và H trả lời “Dạ không” thì L dí dây điện vào đầu gối chân trái của Th 01 cái. L tiếp tục tra hỏi rồi dí thêm 01 lần vào chân và 04 lần vào tay Th. Đồng thời quá trình tra hỏi L còn dí vào chân phải của H 02 lần. Tất cả những lần dí điện L đều rút dây điện ra ngay. Sau đó L cất sợi dây điện ở góc sau bên trái nhà rồi bỏ đi. Khoảng 30 phút sau, L quay về gắn thêm 02 đoạn dây điện ngắn vào H đầu phích cắm để chuẩn bị dí điện vào người Th và H thì Th van xin nói sẽ đi tìm mẹ nên L cất sợi dây điện. Sau đó, Th và H đi tìm mẹ và cùng với chị C đến Công an trình báo sự việc. Quá trình điều tra, Lê Văn L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Kết quả khám nghiệm hiện trường xác định tại vị trí các bảng điện mà bị cáo cắm dây điện để thực hiện hành vi đều được kết nối với điện lưới sinh hoạt 220V.

Bản kết luận giám định pháp y về Th tích số 186/TgT ngày 25/9/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Quảng Trị kết luận: “Tỷ lệ tổn thương cơ thể của Chị Lê Thị C sinh năm 1980, trú tại: thôn H, xã G, huyện G, tỉnh Quảng Trị do thương tích gây nên là 06%.

Bản kết luận giám định pháp y về Th tích số 184/TgT ngày 25/9/2020 kết luận: “Tỷ lệ tổn thương cơ thể của cháu Lê Văn Th sinh năm 2002, trú tại: thôn H, xã G, huyện G, tỉnh Quảng Trị là 01%”.

Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 183/TgT ngày 25/9/2020 kết luận: “Tỷ lệ tổn Th cơ thể của cháu Lê Văn H sinh năm 2008, trú tại: thôn H, xã G, huyện G, tỉnh Quảng Trị là 01%”.

Tất cả những tổn thương trên phù hợp bỏng nhiệt, điện.

Cáo trạng số 03/CT-VKS-GL ngày 07/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gio Linh truy tố bị cáo Lê Văn L về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gio Linh giữ nguyên Quyết định truy tố bị cáo Lê Văn L về tội “Cố ý gây thương tích” và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng dụng điểm c khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51(thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt); điểm đ khoản 1 Điều 52 (phạm tội vì động cơ đê hèn) Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Văn L từ 24 đến 30 tháng tù.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS, tịch thu tiêu hủy: 01 sợi dây điện màu vàng dài 6,8m, gồm 02 lõi, vỏ bọc bằng PCV, H đầu dây điện được gắn với phích cắm; 01 cái tuốc nơ vít dài 29cm, cán bằng nhựa màu vàng đen, thân bằng kim loại màu trắng, đầu có 04 chấu; 01 cái kéo bằng kim loại dài 20cm, tay cầm bọc nhựa màu xanh lá cây.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí theo quy định.

Người bảo vệ quyền và L ích hợp pháp của bị hại đề nghị HĐXX xem xét cân nhắc trên cơ sở luận tội của kiểm sát viên và ý kiến của bị hại xin cho bị cáo được hưởng án treo, nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ được quyền L ích chính đáng của bị hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi tố tụng, quyết định tố tụng:

Đối với hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Gio Linh, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Gio Linh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến gì hoặc có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Lời kH nhận của bị cáo tại phiên toà cùng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở khẳng định: Do nghi ngờ vợ là Chị Lê Thị C ngoại tình và đứa con thứ tư trong gia đình không phải là con của bị cáo. Để ép buộc chị C phải thừa nhận việc này, vào khoảng 12 giờ ngày 12/9/2020 bị cáo Lê Văn L lấy một sợi dây điện cắm một đầu dây điện vào ổ cắm, đầu dây còn lại L cầm đi đến và tra hỏi chị C về việc đứa con thứ tư là con của ai, chị C trả lời “Con của anh”, thì L liền dí đầu dây điện vào vùng tay, chân của chị C nhiều lần, mỗi lần dí điện khi đầu dây điện chạm vào người chị C thì L liền rút ra ngay. Với hành vi tương tự, từ 13 giờ đến 16 giờ ngày 13/9/2020, L tiếp tục dùng dây điện dí liên tiếp vào tay, chân của chị C. Đêm 13/9/2020, vì quá hoảng sợ nên chị C đã trốn khỏi nhà. Không dừng lại ở đó, khoảng 14 giờ ngày 23/9/2020, L tiếp tục lấy sợi dây điện trên cắm vào ổ điện rồi dí vào H con mình là cháu Lê Văn Th 02 lần vào chân và 04 lần vào tay, cháu Lê Văn H 02 lần vào chân sau khi tra khảo H con về chổ ở của mẹ là Chị Lê Thị C nhưng Lê Văn Th và Lê Văn H trả lời không biết.

Hành vi của bị cáo Lê Văn L sử dụng dây điện có kết nối với nguồn điện 220V, dí vào người đã gây ra thương tích cho Chị Lê Thị C 06%; cháu Lê Văn Th 01%; cháu Lê Văn H 01%, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự với tình tiết định khung “Phạm tội hai lần trở lên” như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gio Linh đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội:

Lê Văn L là người có là người có nhận thức và hiểu biết pháp luật nhất định, nhưng với ý thức coi thường sức khỏe tính mạng của người khác, ghen tuông mù quáng, để thực hiện bằng được mục đích của mình là buộc vợ phải thừa nhận có ngoại tình và đứa con thứ tư không phải là con của bị cáo. Bị cáo đã có hành vi sử dụng điện là nguồn nguy hiểm có thể dẫn đến chết người để dí vào người chính vợ và con đẻ của mình, là những người thân thích của bị cáo và là phụ nữ và trẻ em trong gia đình. Hành vi của bị cáo đã gây ra đau đớn về thể xác, hoảng loạn về tinh thần cho vợ con. Mặc dù, bị cáo đang có tiền sự về hành vi sử dụng các công cụ phương tiện hoặc các vật dụng khác gây Th tích cho thành viên gia đình là vợ của bị cáo, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học kinh nghiệm cho bản thân mà tiếp tục có hành vi phạm tội tra tấn, hành hạ vợ con. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm hại đến sức khỏe của người khác, mà còn gây mất trật tự trị an trên địa bàn, nên cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc.

[4] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội với động cơ mục đích là để trả thù, ép buộc vợ phải thừa nhận đứa con thứ tư không phải là con mình, động cơ phạm tội của bị cáo thể hiện sự hèn hạ, ích kỷ, nên phải chịu tình tiết tăng nặng “Phạm tội vì động cơ đê hèn” quy định tại điểm đ khoản 1Điều 52 Bộ Luật Hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo đã thành khẩn kH báo, ăn năn hối cải; tại phiên toà bị hại xin cho bị cáo được hưởng án treo, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ Luật Hình sự.

Trên cơ sở các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ được áp dụng, Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa C.

[5] Về áp dụng biện pháp ngăn chặn: Căn cứ Điều 329 BLTTHS, Hội đồng xét xử ban hành Quyết định tạm giam đối với bị cáo để đảm bảo thi hành án.

[6] Về xử lý vật chứng:

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Gio Linh đã tạm giữ:

- 01 sợi dây điện màu vàng dài 6,8m, gồm 02 lõi, loại cáp đồng, lớp vỏ bọc bằng PCV, H đầu dây điện được gắn với phích cắm H chấu bàng kim loại;

- 01 cái tuốc nơ vít dài 29cm, cán bằng nhựa màu vàng đen, thân bằng kim loại màu trắng, đầu có 04 chấu, đã qua sử dụng;

- 01 cái kéo bằng kim loại, màu đen, dài 20cm.

Đây là công cụ để bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, hiện không còn giá trị sử dụng, nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn L phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm đ khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Văn L 24 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 25/9/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; điểm c khoản 2 Điều 106 BLTTHS, tịch thu tiêu hủy:

- 01 sợi dây điện màu vàng dài 6,8m, gồm 02 lõi, loại cáp đồng, lớp vỏ bọc bằng PCV;

- 01 cái tuốc nơ vít dài 29cm;

- 01 cái kéo bằng kim loại, màu đen, dài 20cm.

Các vật chứng trên có đặc điểm như tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/01/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Gio Linh và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gio Linh, hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gio Linh

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án”, buộc bị cáo Lê Văn L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Lê Văn L, bị hại Lê Thị C đồng thời là đại diện của bị hại Lê Văn H, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bảo vệ quyền và L ích hợp pháp của bị hại Lê Văn H có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền L , nghĩa vụ của bị hại Lê Văn H trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại Lê Văn Th có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

531
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 04/2021/HS-ST

Số hiệu:04/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gio Linh - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:09/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về