Bản án về tội cố ý gây thương tích số 03/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HẢI, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 03/2023/HS-ST NGÀY 06/01/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 06 tháng 01 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 62/2022/TLST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 63/2022/QĐXXST-HS, ngày 23 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H, sinh năm 1976 tại thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp; nơi cư trú: ấp 3, thị trấn GH, huyện Đ, tỉnh B; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; nghề nghiệp: thợ hàn; trình độ học vấn: 5/12; con ông Nguyễn Văn M (đã chết) bà Trương Thị N, sinh năm 1952; có vợ là Đặng Thị L, sinh năm 1979; có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2002, nhỏ nhất sinh năm 2004; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị khởi tố ngày 27/7/2021 và bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đến nay (có mặt).

Các bị hại:

- Anh Nguyễn Hoàng P, sinh năm 2001 (vắng mặt).

Địa chỉ: K 5, P 3, thành phố B, tỉnh B.

Nơi công tác: Phòng Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp Công an tỉnh B.

- Anh Mai Phương K, sinh năm 2000 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp LL, xã AT, huyện Đ, tỉnh B.

Nơi công tác: Phòng Cảnh sát cơ động Công an tỉnh B.

- Anh Lê Tuấn C, sinh năm 2000 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp VH, xã VT, huyện Hòa Bình, tỉnh B.

Nơi công tác: Phòng Cảnh sát cơ động Công an tỉnh B.

- Anh Lê Văn C1, sinh năm 1997 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp TX, xã LN, huyện Hồng Dân, tỉnh B.

Nơi công tác: Phòng Cảnh sát cơ động Công an tỉnh B.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Đặng Thị L, sinh năm 1979 (có mặt).

2. Chị Nguyễn Thị Tường V, sinh năm 2002 (vắng mặt).

3. Anh Nguyễn Văn Thành T, sinh năm 2004 (có mặt).

Cùng địa chỉ: Ấp 3, thị trấn GH, huyện Đ, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Cục thi hành án dân sự tỉnh B và các cơ quan chức năng đã nhiều lần động viên, giải thích để gia đình bị cáo tự nguyện chấp hành việc tháo dỡ, di dời căn nhà diện tích 68,4m2 để giao phần đất 66m2 cho Công ty Cổ phần chế biến và Dịch vụ Thủy sản Cà Mau theo bản án số 125/2019/DS-PT ngày 19/4/2019 của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh, nhưng gia đình bị cáo cố tình không chấp hành. Do đó, Cục thi hành án dân sự tỉnh B đã ban hành Quyết định cưỡng chế số 05/QĐ-CTHADS ngày 02/3/2020 theo quy định của pháp luật.

Để đảm bảo việc cưỡng chế, Công an tỉnh B có kế hoạch số 19/KH- PC10 ngày 24/5/2021 về việc đảm bảo cưỡng chế thi hành án dân sự và phương án số 04/PA-PC10 về việc xử lý tình huống trong quá trình cưỡng chế thi hành án, trong đó có phân công lực lượng đảm bảo cưỡng chế trong đó có các chiến sỹ Lê Văn C1, Mai Phương K, Lê Tuấn C và Nguyễn Hoàng P.

Đối với bị cáo, do biết thời gian đoàn sẽ tiến hành cưỡng chế nên vào ngày 26/5/2021, bị cáo đã chuẩn bị 100 lít xăng, bị cáo đổ xăng vào các chai nước ngọt sau đó dùng vải đậy lại (bom xăng), dùng vải quấn vào cây gỗ (đuốc), bột ớt, bình gas để chống trả đoàn cưỡng chế; phân công vợ, con và người thân của bị cáo đứng trước cửa nhà để ngăn cản đoàn cưỡng chế.

Vào lúc 08 giờ 30 phút, ngày 27/5/2021, tại phần đất phải cưỡng chế, Cục thi hành án đã thông báo cho bị cáo và gia đình tự nguyện tháo dỡ, di dời căn nhà nếu không sẽ bị cưỡng chế. Tuy nhiên, gia đình bị cáo không tự nguyện nên buộc phải tiến hành cưỡng chế. Trong quá trình lực lượng cưỡng chế đứng trước cửa chính để phá cửa vào nhà, thì bà Đặng Thị L cùng các con cố tình chống đối không cho đoàn cưỡng chế làm nhiệm vụ nhưng những người này không có hành vi nguy hiểm cụ thể.

Thời điểm này, bị cáo ở trong nhà múc xăng tưới vào đầu cây đuốc và dùng bật lửa đốt cây đuốc ném về phía cửa nơi có lực lượng đang thi hành nhiệm vụ làm lửa bùng cháy gây thương tích cho 04 chiến sĩ làm nhiệm vụ gồm Lê Văn C1, Mai Phương K, Lê Tuấn C và Nguyễn Hoàng P.

Ngày 08/7/2021, các bị hại Nguyễn Hoàng P, Lê Văn C1, Mai Phương K và Lê Tuấn C có đơn yêu cầu xử lý hình sự đối với bị cáo.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 126/TgT ngày 02/7/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh B đối với Nguyễn Hoàng P kết luận: Vết bỏng độ I, II ở cẳng tay phải, cẳng tay trái và cẳng cổ chân trái. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 06%.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 112/TgT ngày 07/6/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh B đối với Lê Văn C1 kết luận: Vết bỏng độ I, II vùng hai bên mắt, má trái, cổ trái và mu bàn tay phải. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 04%.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 113/TgT ngày 07/6/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh B đối với Mai Phương K kết luận: Một vết bỏng độ I, II ở mặt trong cổ tay trái; tổn thương ở cổ chân đến các đầu ngón chân phải không để lại sẹo và vết biến đổi sắc tố da theo Thông tư 22/2019/TT-BYT không quy định tỷ lệ. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 01%.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 124/TgT ngày 23/6/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh B đối với Lê Tuấn C kết luận: Ba vết trầy xướt để lại vết biến đổi sắc tố da ở ngón I-III-V bàn tay phải. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 01%.

Tại Bản kết luận giám định số 4834/C09B ngày 06/12/2021 của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Chất lỏng trong 04 chai nhựa được đánh số thứ tự 22, 23, 24, 25 gửi giám định đều tìm thấy các thành phần của xăng.

Cáo trạng số 53/CT-VKS-HS ngày 08/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a, b, k khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị:

Áp dụng điểm a, b, k khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Mặc dù các bị hại không yêu cầu nhưng bị cáo tự nguyện bồi thường cho các bị hại số tiền 5.000.000 đồng nên ghi nhận. Mỗi bị hại được nhận 1.250.000 đồng.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy các vật chứng trong quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã tiến hành thu giữ.

Về án phí: bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố và xét xử: Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng quy định. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Các bị hại Nguyễn Hoàng P, Lê Văn C1, Mai Phương K và Lê Tuấn C; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Nguyễn Thị Tường V có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Xét thấy, việc vắng mặt những người nêu trên không gây trở ngại cho việc xét xử, căn cứ khoản 1 Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự, tiến hành xét xử vắng mặt anh Nguyễn Hoàng P, Lê Văn C1, Mai Phương K và Lê Tuấn C; chị Nguyễn Thị Tường V.

[2]. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, phù hợp với tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ nên Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận:

Vì muốn ngăn cản lực lượng cưỡng chế tháo dỡ nhà để trả lại diện tích đất cho Công ty cổ phần chế biến và dịch vụ thủy sản Cà Mau theo bản án số 125/2019/DS-PT ngày 19/4/2019 của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh, nên vào ngày 27/5/2021, bị cáo có hành vi dùng xăng châm lửa ném vào lực lượng bảo vệ cưỡng chế, hậu quả gây ra thương tích cho nhiều người đang thi hành công vụ gồm: Nguyễn Hoàng P tỷ lệ thương tích 06%, Lê Văn C1 tỷ lệ thương tích 04%, Mai Phương K tỷ lệ thương tích 01% và Lê Tuấn C tỷ lệ thương tích 01%.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội cố ý gây thương tích theo quy định tại điểm a, b, k khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Do đó, cáo trạng số 53/CT-VKS-HS ngày 08/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn H về tội “cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a, b, k khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự là đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của người khác. Bị cáo là người đã thành niên, biết việc gây thương tích cho người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện tội phạm.

Lý do dẫn đến thực hiện hành vi phạm tội bị cáo cho rằng do không đồng ý nội dung bản án số 125/2019/DS-PT ngày 19/4/2019 của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử nhận thấy: Tòa án nhân dân Tối cao đã có Thông báo số 461/TB-TA ngày 28/8/2020 về việc giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm của bị cáo, theo đó không có căn cứ để kháng nghị bản án của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. Trong giai đoạn thi hành án cơ quan chức năng đã rất nhiều lần tuyên truyền, vận động, thuyết phục bị cáo tự nguyện thi hành án, thỏa thuận thi hành án. Lẽ ra bị cáo phải chấp hành bản án, nhưng với thái độ xem thường pháp luật, bị cáo đã có hành vi chuẩn bị xăng là hóa chất nguy hiểm châm lửa ném vào những người đang thi hành công vụ và gây thương tích cho nhiều người. Hành vi phạm tội của các bị cáo gây bức xúc trong nhân dân, làm mất an ninh trật tự tại địa phương, tạo tiền lệ xấu về việc không chấp hành các bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ: Người phạm tội tự nguyện khắc phục hậu quả; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Mặc dù các bị hại không yêu cầu bồi thường thiệt hại nhưng bị cáo tự nguyện nộp bồi thường cho các bị hại 5.000.000 đồng tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ nên ghi nhận, mỗi bị hại được nhận 1.250.000 đồng.

[7]. Về vật chứng: Cơ quan điều tra đã tiến hành thu giữ các vật chứng gồm:

01 (một) ca múc nước màu đỏ, có tay cầm kích thước 13cm x 2,4cm x 1cm, phần chứa nước có kích thước chiều cao 11cm, đường kính miệng phần chứa nước là 14cm; 01 (một) bình gas mini, hiệu NaMiLux, có màu vàng – xanh – trắng – đen, có kích thước cao 18cm, đường kính đáy bình gas 6,6cm, trên đầu bình gas có gắn dụng cụ đốt (khè) trên thân dụng cụ khè có chữ “Gas Kovie”, phía đuôi dụng cụ đốt (khè) có núm vặn bằng nhựa màu cam, đầu ống đốt (khè) làm bằng kim loại, dụng cụ đốt (khè) có kích thước dài 15cm, đường kính miệng ống đốt (khè) dài 1,8cm. Tổng trọng lượng bình gas và dụng cụ đốt (khè); 01 (một) chai nhựa bị cháy biến dạng có ám khói đen, có kích thước 19cm x 16cm, phần đầu chai có bám dính mãnh vãi bị cháy xém; 01 (một) bật lửa màu đỏ có kích thước 0,8cm x 2,1cm;

01 (một) bật lửa màu trắng trên thân có hoa văn, có kích thước 0,8cm x 2,1cm; 01 (một) can nhựa loại can 30 lít, màu trắng đục, can có nắp đậy màu trắng; 01 (một) vỏ kết nước giải khát bằng nhựa màu vàng có chữ Number 1, bên trong có chứa 30 chai, loại chai thủy tinh với nhiều kích thước khác nhau, đầu các chai có gắn mãnh vải; 01 (một) vỏ kết nước giải khát bằng nhựa màu vàng, đã bị cháy biến dạng và ám khói màu đen, bên trong có chứa 26 chai thủy tinh, có nhiều mãnh vỡ nằm trên các chai thủy tinh; 01 (một) bình gas mini, màu xanh hiệu IKURA, có kích thước cao 18cm, đường kính đáy bình gas 6,6cm, trên đầu bình gas có gắn dụng cụ đốt (khè), trên thân dụng cụ đốt (khè) có chữ “Gaskovie” phía đuôi dụng cụ khè có núm vặn bằng nhựa màu cam, đầu ống đốt (khè) bằng kim loại, dụng cụ đốt có kích thước 1,8cm x 15cm; 05 (năm) đoạn cây gỗ, mỗi cây đều có quắn vải.

01 (một) thùng nhựa màu xanh lá có kích thước chiều cao 52cm. Thùng có nắp đậy; 01 (một) can nhựa, loại can 30 lít, màu trắng đục, can có nắp đậy màu trắng; 01 (một) can nhựa, loại can 30 lít, màu trắng đục, can có nắp đậy màu trắng;

01 (một) can nhựa, loại can 30 lít, màu vàng nâu, can có nắp đậy; 01 (một) can nhựa, loại can 20 lít, màu vàng nâu, trên thân can có chữ “HP”, can có nắp đậy màu xanh đậm; 01 (một) can nhựa loại can 30 lít, màu trắng đục, can có nắp đậy màu đỏ; 01 (một) can nhựa loại can 30 lít màu trắng đục, can có nắp đậy màu đỏ;

01 (một) bình gas lớn màu hồng, có hiệu PETROVIETNAM GAS, có trọng lượng 14kg, đường kính đáy 30cm; 01 (một) bình gas lớn màu hồng, có hiệu PETROVIETNAM GAS, có trọng lượng 14 kg, đường kính đáy 30cm; 01 (một) bình gas lớn màu vàng, hiệu TTAGAS, có trọng lượng 14kg, đường kính đáy 30cm; 01 (một) bình gas lớn màu xám, hiệu PETROVIETNAM GAS, có trọng lượng 21kg, đường kính đáy là 30cm. Xét không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[8]. Về án phí: bị cáo nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[9]. Đối với bà Đặng Thị L, chị Nguyễn Thị Tường V và anh Nguyễn Văn Thành T đã có hành vi cản trở lực lượng tham gia cưỡng chế nhưng hành vi những người này không quyết liệt cũng như không có sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực hoặc thủ đoạn khác để ngăn cản lực lượng thi hành công vụ nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý trách nhiệm hình sự là có cơ sở.

Đối với xe mô tô, xe đạp gửi tại nhà bị cáo bị hư hỏng, việc hư hỏng các tài sản không xuất phát từ ý thức chủ quan muốn cố ý gây thiệt hại tài sản của người khác nên Cơ quan điều tra không đề cập để xem xét xử lý trách nhiệm hình sự là có căn cứ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm a, b, k khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt đi chấp hành án.

2. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Nguyễn Văn H bồi thường cho các bị hại 5.000.000 đồng, số tiền trên bị cáo Nguyễn Văn H đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ ngày 28/11/2022 theo biên lai thu tiền số 0003071 được trả cho anh Lê Văn C1, anh Mai Phương K, anh Lê Tuấn C và anh Nguyễn Hoàng P mỗi người 1.250.000 đồng.

2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự;

điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) ca múc nước màu đỏ, có tay cầm kích thước 13cm x 2,4cm x 1cm, phần chứa nước có kích thước chiều cao 11cm, đường kính miệng phần chứa nước là 14cm; 01 (một) bình gas mini, hiệu NaMiLux, có màu vàng – xanh – trắng – đen, có kích thước cao 18cm, đường kính đáy bình gas 6,6cm, trên đầu bình gas có gắn dụng cụ đốt (khè) trên thân dụng cụ khè có chữ “Gas Kovie”, phía đuôi dụng cụ đốt (khè) có núm vặn bằng nhựa màu cam, đầu ống đốt (khè) làm bằng kim loại, dụng cụ đốt (khè) có kích thước dài 15cm, đường kính miệng ống đốt (khè) dài 1,8cm. Tổng trọng lượng bình gas và dụng cụ đốt (khè); 01 (một) chai nhựa bị cháy biến dạng có ám khói đen, có kích thước 19cm x 16cm, phần đầu chai có bám dính mãnh vãi bị cháy xém; 01 (một) bật lửa màu đỏ có kích thước 0,8cm x 2,1cm; 01 (một) bật lửa màu trắng trên thân có hoa văn, có kích thước 0,8cm x 2,1cm; 01 (một) can nhựa loại can 30 lít, màu trắng đục, can có nắp đậy màu trắng; 01 (một) vỏ kết nước giải khát bằng nhựa màu vàng có chữ Number 1, bên trong có chứa 30 chai, loại chai thủy tinh với nhiều kích thước khác nhau, đầu các chai có gắn mãnh vải; 01 (một) vỏ kết nước giải khát bằng nhựa màu vàng, đã bị cháy biến dạng và ám khói màu đen, bên trong có chứa 26 chai thủy tinh, có nhiều mãnh vỡ nằm trên các chai thủy tinh; 01 (một) bình gas mini, màu xanh hiệu IKURA, có kích thước cao 18cm, đường kính đáy bình gas 6,6cm, trên đầu bình gas có gắn dụng cụ đốt (khè), trên thân dụng cụ đốt (khè) có chữ “Gaskovie” phía đuôi dụng cụ khè có núm vặn bằng nhựa màu cam, đầu ống đốt (khè) bằng kim loại, dụng cụ đốt có kích thước 1,8cm x 15cm; 05 (năm) đoạn cây gỗ, mỗi cây đều có quắn vải.

(Các vật chứng trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 05/01/2023).

01 (một) thùng nhựa màu xanh lá có kích thước chiều cao 52cm. Thùng có nắp đậy; 01 (một) can nhựa, loại can 30 lít, màu trắng đục, can có nắp đậy màu trắng; 01 (một) can nhựa, loại can 30 lít, màu trắng đục, can có nắp đậy màu trắng;

01 (một) can nhựa, loại can 30 lít, màu vàng nâu, can có nắp đậy; 01 (một) can nhựa, loại can 20 lít, màu vàng nâu, trên thân can có chữ “HP”, can có nắp đậy màu xanh đậm; 01 (một) can nhựa loại can 30 lít, màu trắng đục, can có nắp đậy màu đỏ; 01 (một) can nhựa loại can 30 lít màu trắng đục, can có nắp đậy màu đỏ;

01 (một) bình gas lớn màu hồng, có hiệu PETROVIETNAM GAS, có trọng lượng 14kg, đường kính đáy 30cm; 01 (một) bình gas lớn màu hồng, có hiệu PETROVIETNAM GAS, có trọng lượng 14 kg, đường kính đáy 30cm; 01 (một) bình gas lớn màu vàng, hiệu TTAGAS, có trọng lượng 14kg, đường kính đáy 30cm; 01 (một) bình gas lớn màu xám, hiệu PETROVIETNAM GAS, có trọng lượng 21kg, đường kính đáy là 30cm.

(Các vật chứng trên hiện cửa hàng xăng dầu số 19 chi nhánh xăng dầu Petrolimex quản lý theo biên bản gửi vật chứng ngày 28/5/2021 của Cơ quan C sát điều tra Công an huyện Đ).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Các bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 03/2023/HS-ST

Số hiệu:03/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về