TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 02/2024/HS-PT NGÀY 05/01/2024 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 05 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh T xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 301/2023/TLPT-HS ngày 06 tháng 11 năm 2023 do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2023/HS-ST ngày 27/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Như Thanh, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 289/2023/QĐXXPT-HS ngày 11/11/2023 của TAND tỉnh T.
Bị cáo kháng cáo:
Dương Đức D; sinh ngày 13/9/1987; tại thị trấn B, huyện N, tỉnh T Nơi cư trú: khu phố X, thị trấn B, huyện N, tỉnh T; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Dương Đức T và bà Trần Thị T1; Có vợ là Trương Thị T2 và 02 con; Con lớn sinh năm và con nhỏ sinh năm Tiền án, tiền sự: không.
Nhân thân:
- Ngày 14/01/2006 bị Công an huyện N xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản;
- Ngày 14/04/2018 bị Công an huyện N xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh nhau gây thương tích Bị cáo tại ngoại - Có mặt tại phiên tòa.
* Bị hại: Anh Trịnh Ngọc H, sinh năm: 1982 Địa chỉ: Thôn Q, xã V, huyện N, tỉnh T. Có mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Anh Phạm Thế A, sinh năm: 1983 Địa chỉ: Thôn Q, xã Y, huyện N, tỉnh T;
Vắng mặt.
- Chị Võ Thị Đ (vợ anh H), sinh năm 1984 Địa chỉ: Thôn Q, xã V, huyện N, tỉnh T.
Có mặt.
* Người làm chứng:
- Anh Quách Văn T3, sinh năm: 1990 Địa chỉ: Thôn Q, xã Y, huyện N, tỉnh T.
- Anh Quách Văn D1, sinh năm: 1977 Địa chỉ: Thôn Q, xã Y, huyện N, tỉnh T.
- Anh Quách Văn C, sinh năm: 2002 Địa chỉ: Thôn Q, xã Y, huyện N, tỉnh T.
- Anh Vũ Ngọc T4, sinh năm: 1982 Địa chỉ: khu phố X, TT. B, huyện N, tỉnh T.
- Anh Ngô Văn Q, sinh năm: 1984 Địa chỉ: Thôn Q, xã Y, huyện N, tỉnh T.
Đều vắng mặt;
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào chiều ngày 20/02/2023, tại gia đình anh Quách Văn T3 (sinh năm 1990), địa chỉ: thôn Q, xã Y, huyện N, tỉnh Ttổ chức tiệc mời khách dự đám cưới. Tham dự đám cưới có bị cáo Dương Đức D, bị hại Trịnh Ngọc H, anh Phạm Thế A và nhiều người khác. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, sau khi ăn uống xong, gia đình tổ chức chương trình âm nhạc. Các thanh niên tham dự tiệc cưới tới vị trí gần sân khấu để nhảy theo nhạc trong đó có Trịnh Ngọc H và Phạm Thế A. Trong khi đang nhảy thì Trịnh Ngọc H túm cổ áo của Phạm Thế A, yêu cầu Thế A cởi áo ra nhảy cho giống mọi người nhưng Thế A không đồng ý nên nói lại H vài câu. Thấy vậy, H dùng tay không đấm vài cái vào mặt của Thế A làm cả hai ngã ngồi về sau. Thấy có đánh nhau, mọi người can ngăn và đưa hai người ra.
Vào thời điểm đấy, D đang ngồi uống nước gần cổng nhà anh T3. Nghe tiếng ồn ào, D chạy tới xem, thì thấy Thế A bị đánh đi ra, D hỏi "Ai đánh anh", Thế A trả lời "Có thằng trong đám đánh anh" và hậm hực chửi bới. D ôm Thế A đưa vào bên trong sân nhà anh T3. Tại đây D và Hoàng Ngọc S khuyên bảo Thế A không nên đánh nhau trong đám cưới. Sau khoảng 15 phút khuyên bảo, D đưa Thế A ra ngoài đường, trước cổng nhà anh T3. Tại đây, D cùng anh Ngô Văn Q, anh Nguyễn Văn H1, khuyên Thế A không nên đánh nhau trong đám cưới, có gì mai giải quyết. Nhưng Thế A vẫn hậm hực, chửi bới và nói câu "Lôi nó ra đánh chết mẹ hắn đi", nói khoảng vài lần trước đám đông. Nhưng không có ai làm theo những gì Thế A nói. D nói với Thế A "Thôi để sáng mai xuống nhà nó, bắt nó quỳ xuống xin lỗi anh". Nhung Thế A vẫn tức tối khó chịu, lấy điện thoại ra gọi cho một số người bạn với mục đích nhờ đến để đánh H; Tuy nhiên, không có ai đến.
Khi thấy anh H và Quách Văn C đi ra khỏi đám cưới, Thế A chỉ tay về phía H và nói "Thằng H ra kìa, đánh chết mẹ nó đi, sai tau chịu" nhưng không ai có phản ứng gì. Khi anh H đi qua cổng được khoảng 10m, D chạy theo cách H khoảng 03m và hỏi nguyên nhân tại sao lại đánh Thế A trong đám cưới. H quay lại và có lời lẽ thách thức D, ngay sau đó H cúi xuống nhặt viên đá trên đường và ném về phía D. Do bực tức với hành động của H nên D lao vào dùng tay đấm H (không rõ vào vị trí nào). Sau đó H bỏ chạy sang đường, D đuổi theo H đến trước khu vực nhà bà Quách Thị Q1, D dùng tay trái gạt ngang vào người H làm H ngã ngửa về phía sau đập đầu xuống nền đường bê tông, bất tỉnh. H được đưa đi cấp cứu và điều trị tại Nệnh viện đa khoa tỉnh T.
Tại bản Kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số: 635/KLTTCT-PYTH ngày 26/04/2023, Trung tâm P kết luận: tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Trịnh Ngọc H tại thời điểm giám định là 33% Trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ thu thập được, Công an huyện N, tỉnh Tđã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Dương Đức D về hành vi “Cố ý gây thương tích”.
* Về vật chứng của vụ án:
- Quá trình điều, D khẳng định anh H có dùng đá ném vào chân mình gây vết thương ở đầu gối. Cơ quan điều tra đã tiến hành truy tìm vật chứng tại hiện trường nhưng không tìm được cục đá nói trên.
- Quá trình điều tra, cơ quan CSĐT đã thu thập các tài liệu, chứng cứ đưa vào hồ sơ vụ án, gồm:
+ Các hóa đơn, chứng từ liên quan đến chi phí cứu chữa và phục hồi chấn thương từ ngày 20/02/2023 đến ngày 29/03/2023 (do gia đình anh Trịnh Ngọc H cung cấp).
+ 02 bản ảnh in, D tự chụp để chứng minh có vết thương do Trịnh Ngọc H dùng đá ném gây thương tích cho D vào tối ngày 20/02/2023 và các tài liệu, chứng cứ thể hiện D có chuyển khoản cho anh H 3.000.000 đồng.
* Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, bị hại khai báo tổng thiệt hại về sức khỏe do bị cáo gây ra là 142.000.000 đồng. Bao gồm: Chi phí điều trị và tiền thốc sau khi ra viện: 24.700.000 đồng; tiền mất khách công trình 5 tháng: 67.500.000 đồng; tiền công người chăm sóc 5 tháng: 50.000.000 đồng; ngoài ra còn chi phí vé máy bay cho người chăm sóc từ N về Việt Nam. Bị cáo đã bồi thường được cho bị hại tổng số tiền 24.000.000 đồng. Trong đó, tiền của bị cáo là 14.000.000 đồng, tiền của Thế A là 10.000.000 đồng. Tại biên bản ghi lời khai ngày 18/7/2023, anh H yêu cầu bị cáo tiếp tục bồi thường thiệt hại 100.000.000 đồng (không bao gồm số tiền 24.000.000 đồng bị cáo đã đưa cho anh H).
Tòa án đã tiến hành xác minh thu nhập của anh H, chị Đ đồng thời yêu cầu anh H, chị Đ nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ chứng minh khoản thu nhập bị mất và tài liệu, chứng cứ chứng minh năng lực lao động bị giảm sút.
Ngày 25/9/2023, chị Đ đã nộp cho Tòa án Giấy xin xác nhận mức thu nhập có xác nhận của UBND xã V. Theo đó, thu nhập của anh H là 15.000.000 đồng/tháng, thu nhập của chị Đ là 10.000.000 đồng/tháng Bản án hình sự sơ thẩm số 174/2023/HS-ST ngày 19/4/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Tquyết định:
Căn cứ: Điểm a khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự
Tuyên bố: Bị cáo Dương Đức D phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Áp dụng: Điểm a khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Dương Đức D 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Về dân sự: Buộc bị cáo Dương Đức D phải bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho anh Trịnh Ngọc H tổng cộng 73.450.000 đồng (bảy mươi ba triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng); bao gồm:
- Chi phí khám chữa bệnh: 24.700.000 đồng - Tiền thu nhập bị mất: 33.750.000 đồng - Tiền công người chăm sóc: 5.000.000 đồng - Tiền tổn thất tinh thần: 9.000.000 đồng - Tiền xe đi về khi cứu chữa: 1.000.000 đồng Bị cáo đã bồi thường được 24.000.000 đồng. Buộc bị cáo phải tiếp tục bồi thường cho bị hại số tiền 49.450.000 đồng (bốn mươi chín triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng).
Ngoài ra bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, nghĩa vụ thi hành án, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật;
Sau khi xét xử sơ thẩm: Ngày 05/10/2023 bị cáo Dương Đức D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo;
Ngày 07/10/2023 bị hại Trịnh Ngọc H kháng cáo đề nghị tăng hình phạt và tăng bồi thường đối với bị cáo;
+ Tại phiên toà: Bị cáo Dương Đức D xin rút kháng cáo về giảm nhẹ hình phạt;
+ Bị hại Trịnh Ngọc H rút toàn bộ kháng cáo về tăng hình phạt và tăng bồi thường đối với bị cáo Dương Đức D;
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu tại phiên tòa:
Tại cấp phúc thẩm: Bị hại rút toàn bộ kháng cáo và bị cáo rút 1 phần kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; bị cáo Dương Đức D xuất trình các tình tiết giảm nhẹ mới được quy định tại điểm b, khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS: Bị cáo đã bồi thường hết số tiền như cấp sơ thẩm đã tuyên cho bị hại; được bị hại làm đơn xin cho bị cáo được hưởng án treo; chính quyền địa phương cũng xác nhận bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn nên đề nghị HĐXX cho bị cáo được cải tạo tại địa phương nên đề nghị HĐXX áp dụng điểm b, khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 điều 357 BLHS; điều 65 BLHS: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Dương Đức D, giữ nguyên mức hình phạt nhưng cho bị cáo được hưởng án treo; Đình chỉ yêu cầu giải quyết của bị hại Trịnh Ngọc H và 1 phần kháng cáo của bị cáo Dương Đức D. Về án phí phúc thẩm: Bị cáo Dương Đức D không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm;
Bị hại trình bày: cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thật sự ăn năn hối hận, xin HĐXX cho bị cáo được hưởng án treo;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1]. Về thủ tục kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo Dương Đức D và bị hại Trịnh Ngọc H được làm trong hạn luật định. Tại phiên tòa bị hại rút toàn bộ kháng cáo, bị cáo rút 1 phần kháng cáo về nội dung xin giảm nhẹ hình phạt nên HĐXX căn cứ điểm đ, khoản 1 Điều 355 BLHS: Đình chỉ giải quyết đối với kháng cáo của bị hại Trịnh Ngọc H và 1 phần kháng cáo của bị cáo Dương Đức D về nội dung xin giảm nhẹ hình phạt. Phần kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Dương Đức D được xem xét theo trình tự phúc thẩm;
[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo và quyết định của tòa án sơ thẩm: Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo đã khai: Vào tối ngày 20/02/2023, tại thôn Q, xã Y, huyện N, tỉnh T. Do có lời qua tiếng lại trong quá trình việc bị cáo hỏi bị hại về nguyên nhân bị hại đánh anh Phạm Thế A, Dương Đức D đã dùng tay tấn công anh Trịnh Ngọc H làm H ngã ngửa về phía sau đập đầu xuống nền đường bê tông. Hậu quả anh Trịnh Ngọc H bị tổn thương 33% cơ thể tại vùng đầu.
Do đó hành vi và hậu quả của Dương Đức D gây ra đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” nên TAND huyện Như Thanh, tỉnh Tđã xét xử bị cáo theo điểm a khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Tại cấp sơ thẩm, bị cáo mới chi bồi thường cho bị hại số tiền 24.000.000đ trên tổng số tiền phải bồi thường là 73.450.000đ, cấp sơ thẩm áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, khoản 1, khoản 2 điều 51 BLHS và tuyên phạt bị cáo mức án 24 tháng tù giam là phù hợp.
Tại cấp phúc thẩm: UBND Thị trấn B xác nhận bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, là lao động chính trong gia đình, con nhỏ vợ không có việc làm; mẹ đẻ thường xuyên đau ốm, bố đẻ bị tai biến và tâm thần đề nghị HĐXX cho bị cáo hưởng án treo; Bị cáo cũng đã bồi thường hết số tiền còn lại cho bị hại, được bị hại làm đơn xin HĐXX cho bị cáo được hưởng án treo và tại phiên toà bị hại trình bày: Do hoàn cảnh của bị cáo rất khó khăn nên đề nghị HĐXX xem xét để bị cáo được cải tạo tại địa phương để có điều kiện chăm lo cho gia đình.
Do đó có cơ sở chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 21/2023/HSST ngày 27/9/2023 của TAND huyện Như Thanh theo hướng: giữ nguyên hình phạt đối với bị cáo Dương Đức D nhưng cho bị cáo hưởng án treo.
[3]. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo được chấp nhận kháng cáo nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ điểm h, khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326 của UBTV Quốc hội quy định về án phí, lệ phí tòa án.
[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị HĐXX không xem xét và có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ: Điểm b, điểm đ khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự:
+ Đình chỉ giải quyết phúc thẩm đối với toàn bộ kháng cáo tăng hình phạt, tăng bồi thường dân sự của bị hại Trịnh Ngọc H đối với bị cáo Dương Đức D;
+ Đình chỉ 1 phần kháng cáo của bị cáo Dương Đức D về nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.
+ Chấp nhận 1 phần kháng cáo của bị cáo Dương Đức D, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 21/2023/HSST ngày 27/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Như Thanh như sau:
Căn cứ: Điểm a khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự
Tuyên bố: Bị cáo Dương Đức D phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Áp dụng: Điểm a khoản 2 Điều 134; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Dương Đức D 24 (hai mươi bốn) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm;
Về trách nhiệm dân sự: Công nhận các bên đã thực hiện xong phần bồi thường dân sự.
Giao bị cáo Dương Đức D cho Ủy ban nhân dân thị trấn B, huyện N tỉnh T giám sát giáo dục trong thời gian thử thách; Gia đình, Ủy ban nhân dân dân thị trấn B, huyện N tỉnh Tcó trách nhiệm giám sát, giáo dục các bị cáo trong thời gian thử thách;
- Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
- Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.
2. Án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ điểm h, khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Dương Đức D không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 02/2024/HS-PT
Số hiệu: | 02/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về