Bản án về tội cố ý gây thương tích (mâu thuẫn ở quán karaoke) số 68/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 68/2021/HS-ST NGÀY 21/12/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 21 tháng 12 năm 2021, tại Tòa án nhân dân huyện T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 65/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 10 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2021/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 12 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Võ N (tên gọi khác: Út H), sinh ngày 10/11/2003; tại huyện T, tỉnh Quảng Nam. Trú tại: Khu phố K, thị trấn H, huyện T, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: V Nam; con ông Võ H, sinh năm 1969 và bà Phan Thị M, sinh năm 1974; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 03/8/2018, bị Công an huyện T xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Ngày 22/12/2020, bị Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Nam Quyết định khởi tố về tội “Giết người”. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 11/8/2021, có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Văn Q (tên gọi khác: Q Long, Q đen), sinh ngày 13/8/1997; tại huyện T, tỉnh Quảng Nam. Trú tại: Khu phố K, thị trấn H, huyện T, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: V Nam; con ông Nguyễn Văn L (chết) và bà Trần Thị Tuyết T (chết); bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 17/12/2014, bị Tòa án nhân dân thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam xử phạt 36 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 12/9/2018, Công an huyện T xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi “Xâm hại đến sức khỏe người khác”. Ngày 03/7/2019, Công an huyện T xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi “Tàng trữ các loại dao nhằm mục đích gây rối trật tự công cộng” và “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 11/7/2019, Công an thị trấn H, huyện T xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 25/11/2019, bị Tòa án nhân dân huyện T ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Ngày 22/12/2020, bị Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Quảng Nam ra Quyết định khởi tố bị can về tội “Giết người”.

Bị cáo hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Nam trong vụ án “Giết người”, có mặt tại phiên tòa.

3. Võ Như H, sinh ngày 17/02/2002; tại huyện T, tỉnh Quảng Nam. Trú tại: Khu phố K, thị trấn H, huyện T, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: V Nam; con ông Võ Như L, sinh năm 1978 và bà Trần Thị Th, sinh năm 1979; bị cáo chưa có vợ con; tiền án: Không. Tiền sự: Ngày 17/7/2020, Công an huyện T xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 2.500.000 đồng về hành vi “Xâm hại đến sức khỏe người khác”; bị cáo chưa nộp tiền phạt.

Nhân thân: Ngày 03/6/2021 bị Tòa án nhân dân huyện T xử phạt 18 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Bị cáo hiện đang chấp hành án theo bản án số 22/2021/HSST của Tòa án nhân dân huyện T, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Võ N:

Ông Trần Q – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Quảng Nam. Có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Võ N:

Ông Võ H, sinh năm: 1969 và bà Phan Thị M, sinh năm: 1974 (Là cha, mẹ ruột của bị cáo N); cùng trú tại: Khu phố K, thị trấn H, huyện T, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.

- Người bị hại:

+ Anh Thái Văn T, sinh năm 1992; trú tại: Tổ 2B, thôn B, xã Đ, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi liên quan đồng thời là người làm chứng trong vụ án:

+ Ông Phạm Văn T, sinh năm: 1968 - Chủ quán Karaoke T; trú tại: khu phố 3, thị trấn H, huyện T, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.

- Người làm chứng:

+ Thái Văn V, sinh ngày: 03/01/2004; trú tại: khu phố 3, thị trấn H, huyện T, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.

* Người đại diện hợp pháp của Thái Văn V: Ông Thái Thái Văn Q, sinh năm: 1969 và bà Ông Thị P, sinh năm: 1972; trú tại: khu phố 3, thị trấn H, huyện T, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.

+ Ông Nguyễn Đức S (Ba Lát), sinh năm: 1991; trú tại: khu phố 6, thị trấn H, huyện T, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.

+ Ông Lê Minh T, sinh năm: 1994; trú tại: Thôn T, xã P, huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.

+ Ông Nguyễn V (Y Rùa), sinh năm: 1995; khu phố 2, thị trấn H, huyện T, tỉnh Quảng Nam. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào tối ngày 08/10/2020, Võ N, Nguyễn Văn Q, Võ Như H và Thái Văn V đang hát karaoke tại quán T thuộc khu phố 3, thị trấn H, huyện T thì xảy ra mâu thuẫn với một nhóm thanh niên lái xe taxi (không xác định được họ tên, địa chỉ) đang hát karaoke tại quán. Sau đó, H chạy về nhà Nguyễn Văn Q lấy 02 cái rựa (có đặc điểm giống nhau, cán bằng tre dài 64cm, lưỡi bằng kim loại dài 23cm) đem lên quán T đưa cho N 01 cái rựa và H 01 cái rựa để đuổi đánh nhóm thanh niên trên nhưng không đánh được. Thấy đánh nhau nên anh Lê Minh T (đang hát Karaoke tại quán) ra can ngăn thì bị nhóm của N đuổi đánh, anh Thuận chạy lên phòng hát Karaoke kể cho Thái Văn T nghe về việc mình bị đánh. Nghe vậy, T chạy về phòng trọ của mình ở Khu phố K, thị trấn H, huyện T lấy một cây đao (cán bằng gỗ dài 20cm, lưỡi bằng kim loại màu trắng dài khoảng 45cm) và một cây gậy bóng chày (bằng kim loại – nhôm - dài khoảng 69cm, màu đen) lên quán Karaoke T nhằm đánh nhau với nhóm của N. Cùng lúc này Q điều khiển xe mô tô chở N cầm theo rựa, H cầm rựa điều khiển xe mô tô đi tìm nhóm thanh niên lái xe taxi để đánh còn V lấy xe đi về nhà. Do không tìm được nhóm thanh niên lái xe taxi nên N xuống xe ở khu công viên bầu Hà Kiều còn Q đi về nhà lấy 01 cây gậy bóng chày (bằng kim loại, màu bạc, cán màu đen, dài khoảng từ 60-80cm) cầm theo nhằm mục đích tìm nhóm thanh niên lái taxi để đánh nhưng không tìm thấy nên Q quay lại khu vực trước quán T thì gặp N, H. Tại đây, Q đưa cho H 01 gậy bóng chày (theo lời khai của H) và H tiếp tục cầm rựa và gậy bóng chày điều khiển xe đi tìm nhóm thanh niên lái xe taxi để đánh lại. Trên đường đi H gặp V ở trước trường tiểu học Kim Đồng, thị trấn H; H bảo V lên xe để H chở đi tìm nhóm thanh niên lái xe taxi, H đưa cho V cầm 01 cái rựa còn H cầm 01 cây gậy bóng chày. Sau đó H, V quay lại quán T. Lúc này, T cầm cây đao và gậy bóng chày quay lại trước quán karaoke T và đi đến quơ vào người Q thì N cầm 01 cái rựa và H cầm cây gậy bóng chày xông lại phía T nên T cầm đao và gậy bóng chày bỏ chạy lên hướng chùa Giác Nguyên thuộc khu phố 3, thị trấn H. Thấy T bỏ chạy nên N cầm rựa, H cầm gậy bóng chày đuổi theo T; Q cũng chạy đuổi theo sau. Khi Q chạy đến quán trà sữa Tokyo thuộc khu phố 3, thị trấn H thì Q giật lấy cây chổi quét nước (dài khoảng 1,2m, cán bằng inox, phần chổi quét bằng nhựa) trên tay của ông Phạm Văn T (sinh năm 1968, chủ quán trà sữa Tokyo) đang quét phía trước quán để đuổi theo T. Đến trước trường Mẫu giáo H thuộc khu phố 3, thị trấn H, huyện T thì Q chạy vượt qua N và H đuổi kịp T. Q dùng cán chổi đánh nhiều cái vào người T.

N và H chạy đến cầm rựa và gậy bóng chày, chặt, đánh nhiều cái vào người của T gây thương tích. Sau đó V đi xe máy đến, thấy T bị thương nên V chở T đi cấp cứu.

Nhận được tin báo, Công an thị trấn H, huyện T đến hiện trường lập biên bản sự việc và tạm giữ những vật chứng gồm: 01 cái rựa, có cán bằng tre dài 64cm, lưỡi bằng kim loại, màu đen, dài 23cm; 01 gậy bóng chày bằng kim loại, màu đen, dài 69cm.

Tại bản kết luận giám định thương tích số 432/GĐTT.20 ngày 24/11/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Quảng Nam kết luận tỷ lệ thương tích của Thái Văn T là 16%, thương tích chi tiết như sau:

- Vùng vai ngực bên trái, từ trước ngoài vai xuống đến cung trước các xương sườn I, II có vết rách da, cơ và vết mổ đã lành sẹo dài 9,5cm, rộng 0,2cm;

- Mặt trong cổ tay chạy vòng ra sau xuống đến mặt mu xương bàn IV, V bàn tay trái có vết rách da, cơ, xát da và vết mổ đã lành có chỗ còn nhiễm trùng rỉ dịch dài 7cm, chỗ rộng nhất 0,5cm;

- Mặt sau ngoài cổ tay chạy xuống dọc mặt mu xương bàn II bàn tay phải vết rách da và cơ đã lành để lại sẹo lồi dài 6,5cm, rộng 0,4cm;

- Mu bàn tay phải, trên nền khớp bàn ngón I có vết rách da, cơ và vết mổ đã lành có chỗ còn sưng nề, tụ máu dài 3,5cm, chỗ rộng nhất 0,3cm.

Tại Công văn số 175/GĐPY ngày 13/102021 của Trung tâm giám định pháp y xác định: Các thương tích nêu trên đều do vật sắc cạnh gây nên, có nhiều khả năng do cái rựa tác động gây nên.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại đều thống nhất và không có ý kiến hay khiếu nại gì về Bản kết luận thương tích nêu trên.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố tại bản cáo trạng số 59/CT-VKSTB-HS ngày 22/10/2021 và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54; Điều 91, Điều 98, Điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Võ Nmức án từ 15 đến 18 tháng tù. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q mức án từ 18 đến 24 tháng tù. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Võ Như H mức án từ 24 đến 30 tháng tù và tổng hợp với bản án số 22/2021/HSST ngày 03/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện T; buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án.

Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo và người bị hại đã thỏa thuận bồi thường số tiền 15.000.000 đồng và bị hại Thái Văn T không có yêu cầu gì thêm nên không đề nghị xem xét.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử lý các vật chứng đã thu giữ theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo N và bị cáo Q đã thừa nhận T bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với những tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và bản cáo trạng của Viện kiểm sát. Bị cáo H không thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời nói sau cùng của các bị cáo: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Võ Nvà Nguyễn Văn Qkhai nhận: Vào tối ngày 20/8/2020, trong lúc hát Karaoke tại quán T thuộc khu phố 3, thị trấn H thì có xảy ra mâu thuẫn với nhóm thanh niên lái taxi. Sau đó, Thái Văn T cầm đao và gậy bóng chày đến trước quán T đòi đánh nhóm của các bị cáo nên các bị cáo đuổi đánh T; khi đuổi đến trước trường mẫu giáo H bị cáo Q dùng cán chổi bằng Inox đánh T 2 - 3 cái và N cầm rựa chém T làm cây đao T đang cầm trên tay rơi xuống đất thì Q xô N ra ngoài và bị trượt chân ngã xuống bầu Hà Kiều nên Q kéo N lên. Lúc kéo N lên, Q quay người lại thấy H xông vào dùng hung khí đánh, chém T. V chạy xe máy đến và Q thấy T bị thương chảy nhiều máu nên Q bảo V chở T đi cấp cứu. Sau đó Công an thị trấn đến làm việc.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Võ Như H không thừa nhận hành vi dùng hung khí chém, đánh T gây thương tích. Bị cáo khẳng định: Khi đuổi theo T bị cáo có cầm 01 cây gậy bóng chày đuổi theo, N chạy trước, bị cáo chạy sau nhưng khi đuổi đến trước trường mẫu giáo H thì bị cáo dừng lại quay về chứ không tham gia đánh T. Lúc đó, bị cáo thấy N dùng rựa chém T và Q dùng đoạn cây bằng Inox đánh T. Mặc dù bị cáo H không thừa nhận hành vi phạm tội của mình; tuy nhiên tại phiên tòa, bị cáo Q và N đều khai nhận tại trước trường mẫu giáo H, bị cáo H dùng hung khí chém, đánh T gây thương tích nhưng không nhớ rõ dùng hung khí gì. Lời khai này của bị cáo Q, N phù hợp với lời khai của người bị hại Thái Văn T tại các bút lục số 160, 162, 162a, 163 và phù hợp với Bản giám định thương tích số 432/GĐTT.20 ngày 24/11/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Quảng Nam nên có cơ sở xác định: Vào tối ngày 08/10/2020, tại trước trường mẫu giáo H; các bị cáo Võ N, Võ Như H và Nguyễn Văn Qđã có hành vi dùng hung khí đánh, chém Thái Văn T gây thương tích với tỷ lệ 16%.

Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Các bị cáo phạm tội "Cố ý gây thương tích", tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự. Do đó, Cáo trạng số 59/CT-VKSTB-HS ngày 22 tháng 10 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Quảng Nam và quan điểm luận tội của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất vụ án và hành vi phạm tội của các bị cáo thì thấy: Bị cáo Võ N, Nguyễn Văn Qvà Võ Như H có đủ khả năng để nhận thức mọi hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác là vi phạm pháp luật nhưng các bị cáo vẫn thực hiện hành vi sử dụng hung khí nguy hiểm để gây thương tích cho người bị hại Thái Văn T với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 16%. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự coi thường tính mạng, sức khỏe của người khác và chỉ vì mâu thuẫn nhỏ trong sinh hoạt mà các bị cáo đã sử dụng hung khí để đuổi đánh và chém nhằm gây thương tích cho Thái Văn T nên hành vi của các bị cáo là có tính chất côn đồ được quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần xử phạt các bị cáo mức án nghiêm minh tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra để cải tạo, giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong T xã hội.

[4]. Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo thì thấy: Các bị cáo đều có nhân thân xấu, đối với bị cáo Võ Như H có 01 tiền sự: Ngày 17/7/2020, bị Công an huyện T xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Xâm hại đến sức khỏe người khác” với số tiền 2.500.000 đồng; bị cáo chưa nộp tiền phạt. Các bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng. Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, bị cáo N, bị cáo Q đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo H có hành vi gây thương tích cho T theo lời khai của các bị cáo Q, N và người bị hại nhưng bị cáo H không thừa nhận nên bị cáo chưa thành khẩn. Sau khi gây thương tích, các bị cáo đã bồi thường cho người bị hại với số tiền 15.000.000 đồng nhằm khắc phục hậu quả. Riêng bị cáo N có hoàn cảnh gia đình khó khăn và đã từng bị đa chấn thương do tai nạn giao thông ảnh hưởng đến sức khỏe; bị cáo Q cha mẹ đều đã chết, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên cần xem đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét cho các bị cáo N, Q khi lượng hình thể hiện sự khoan hồng của pháp luật. Tuy nhiên, cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo.

[5]. Xét vài trò của các bị cáo trong vụ án thì thấy: Các bị cáo không có sự bàn bạc, phân công vai trò và cấu kết chặt chẽ trước khi thực hiện hành vi phạm tội nên hành vi của các bị cáo chỉ là đồng phạm giản đơn. Trong vụ án này, bị cáo Võ Nlà người khởi xướng và dùng rựa chém T gây thương tích nên N phải chịu trách nhiệm hình sự nặng hơn các bị cáo khác, Nguyễn Văn Qvà Võ Như H cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội và đều có vài trò ngang nhau nên phải chịu trách nhiệm hình sự như nhau. Do đó, cần áp dụng Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 để xem xét khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo. Tuy nhiên, đối với bị cáo Võ Ntại thời điểm phạm tội bị cáo là người chưa thành niên (Đến ngày phạm tội bị cáo N chưa đủ 17 tuổi); do đó, cần áp dụng các quy định tại Chương XII của Bộ luật Hình sự năm 2015 để xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[6]. Những vấn đề liên quan trong vụ án:

- Đối với người bị hại Thái Văn T cầm theo hung khí (cây đao và gậy bóng chày) tìm nhóm của N để đánh, tuy chưa đánh được ai nhưng hành vi của T là cầm hung khí nhằm mục đích gây thương tích cho người khác nên đã vi phạm điểm a khoản 3 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ. Cơ quan CSĐT Công an huyện T ra Quyết định xử lý vi phạm hành chính là đúng pháp luật.

- Đối với Thái Văn V không tham gia đuổi, đánh T; sau khi sự việc xảy ra V điều khiển xe máy đến hiện trường và chở T đi cấp cứu. Tuy nhiên, V có cầm hung khí nhằm mục đích tìm nhóm thanh niên lái taxi để đánh nên hành vi của V đã vi phạm điểm a khoản 3 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ. Cơ quan CSĐT Công an huyện T ra Quyết định xử lý vi phạm hành chính là đúng pháp luật.

- Đối với những vật chứng không thu giữ được, các cơ quan tiến hành tố tụng đã truy tìm vật chứng nhưng không có kết quả nên không đề cập đến.

[7]. Về trách nhiệm dân sự: Đã thỏa thuận bồi thường xong, người bị hại không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 cái rựa có cán bằng tre dài 64cm, lưỡi bằng kim loại, màu đen, dài 23cm và 01 gậy bóng chày bằng kim loại, màu đen, dài 69cm.

[9]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo Võ N, Nguyễn Văn Q, Võ Như H phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

1. Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54, Điều 91, Điều 98, Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Võ N.

- Xử phạt: Bị cáo Võ N 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam (11/8/2021).

2. Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Nguyễn Văn Q.

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Q 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày đi thi hành án.

3. Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Võ Như H.

- Xử phạt: Bị cáo Võ Như H 24 (Hai mươi bốn) tháng tù.

Bị cáo Võ Như H đang chấp hành hình phạt 18 (Mười tám) tháng tù theo Bản án số 22/2021/HSST ngày 03/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện T. Tổng hợp hình phạt chung của hai bản án, buộc bị cáo phải chấp hành là 42 (Bốn mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/11/2020.

4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 cái rựa có cán bằng tre dài 64cm, lưỡi bằng kim loại, màu đen, dài 23cm và 01 gậy bóng chày bằng kim loại, màu đen, dài 69cm.

(Vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện T theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/10/2021).

5. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Q hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc bị cáo Võ N, Nguyễn Văn Q, Võ Như H; mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Do bị cáo Võ Nchưa đủ tuổi thành niên nên cha, mẹ của bị cáo có nghĩa vụ nộp thay.

6. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo N, người bào chữa có mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 21/12/2021). Người bị hại, người có quyền liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

55
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích (mâu thuẫn ở quán karaoke) số 68/2021/HS-ST

Số hiệu:68/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Phước - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về