TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 140/2022/HS-ST NGÀY 07/12/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 07 tháng 12 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 104/2022/HSST ngày 14/10/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 129/2022/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Văn Đ, sinh năm 1996 tại tỉnh T Nơi cư trú: ấp TP, xã TLT, huyện CT, tỉnh T
Nghề nghiệp: không Trình độ văn hóa: 01/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không;
Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn H (đã chết) và bà Nguyễn Thị Kim T; bị cáo chưa có vợ con.
Tiền án: 02 lần
- Ngày 13/8/2020 bị Toà án nhân dân huyện C, tỉnh T xử phạt 06 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo bản án số 83/2020/HSST, bị cáo chấp hành xong ngày 29/3/2021.
- Ngày 10/02/2022 bị Toà án nhân dân huyện C, tỉnh T xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 09/2022/HSST, bị cáo chấp hành xong ngày 20/7/2022 Tiền sự: không Nhân thân:
Ngày 10/11/2017 bị Toà án nhân dân huyện C, tỉnh T áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 12 tháng theo Quyết định số 120/2017/QĐ-TA, bị cáo chấp hành xong ngày 26/9/2018.
Ngày 06/3/2020 bị Toà án nhân dân huyện C, tỉnh T áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 18 tháng theo Quyết định số 120/2017/QĐ-TA. Ngày 29/8/2020 được Toà án miễn chấp hành thời gian còn lại của biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện để đi thi hành đối với bản án số 63/2020/HSST.
Bị cáo bị bắt tạm giữ vào ngày 10/8/2022, chuyển tạm giam từ ngày 13/8/2022 tại nhà tạm giữ Công an huyện C, tỉnh T.
Bị cáo có mặt tại phiên toà.
- Bị hại:
1/ Nguyễn Minh V, sinh năm 1999 (có mặt) Địa chỉ: Ấp 1, xã TL1, huyện TP, tỉnh T.
2/ Châu Tiểu L, sinh ngày 29/11/2004 (có mặt) HKTT: ấp PH, xã PT, thành phố MT, tỉnh T
Chỗ ở hiện nay: ấp 1, xã TL1, huyện TP, tỉnh T.
Đại diện hợp pháp: Châu Tuấn K, địa chỉ: ấp PH, xã PT, thành phố MT, tỉnh T (vắng mặt)
- Người làm chứng:
1/ Nguyễn Văn Q, sinh năm 2006 (có mặt) Địa chỉ: ấp 1, xã TL1, huyện TP, tỉnh T
2/ Lê Thanh P, sinh năm 1988 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp TL 1, xã TLĐ, huyện CT, tỉnh T.
3/ Châu Anh T1, sinh năm 1985 (có mặt) Địa chỉ: ấp PH, xã PT, thành phố MT, tỉnh T
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17 giờ ngày 30/7/2022, Trần Văn Đ đến nhà của anh Lê Thanh B (B U T) uống rượu cùng với anh Lê Thanh P (B1) và một số người bạn. Đ ra sau nhà của B đánh bạc với 03-04 người phụ nữ (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) một lúc quay lại thì thấy bạn gái cũ của Đ là Châu Tiểu L và bạn trai mới của L là Nguyễn Minh V đang ngồi uống rượu cùng với P. Lúc này Đ đến mời L uống nữa ly rượu và hỏi mượn xe mô tô hai bánh để đi công việc nhưng L không đồng ý. Đ tức giận và bỏ ra về.
Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, khi anh V điều khiển xe môtô 02 bánh biển số 63B8-xxxxx chở chị L về đến xóm gò thuộc ấp TL 1, xã TLĐ, huyện CT, tỉnh T thì bị Đ chặn xe của anh V lại, Đ dùng dao tự chế (loại dao phóng lợn, cán bằng kim loại hình tròn dài khoảng 1m, lưỡi dao bằng kim loại dài khoảng 30cm, mũi nhọn) chém 01 cái trúng vào cổ tay trái của chị L gây thương tích, sau đó Đ tiếp tục dùng dao tự chế chém nhiều cái vào người anh Nguyễn Minh V gây thương tích. V, L được đưa đi cấp cứu và có đơn yêu cầu xử lý hình sự đối với Đ.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 238/2022/TgT ngày 09/8/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh T đối với Nguyễn Minh V kết luận:
1. Dấu hiệu chính qua giám định:
- Hai vết thương vùng chẩm phải.
- Vết thương vai trái.
- Sẹo vết thương mạn sườn phải.
2. Kết luận: Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Nguyễn Minh V là: 04% (Bốn phần trăm).
3. Kết luận khác:
+ Thương tích do vật sắc gây nên.
+ Hai vết thương vùng chẩm phải. Tỷ lệ mỗi vết: 01% (Một phần trăm)
+ Vết thương vai trái. Tỷ lệ: 01% (Một phần trăm)
+ Sẹo vết thương mạn sườn phải. Tỷ lệ: 01% (Một phần trăm) Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 239/2022/TgT ngày 09/8/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh T đối với Châu Tiểu L kết luận:
1. Dấu hiệu chính qua giám định:
- Vết mổ trùng vết thương hình chữ Z mặt sau cổ tay trái.
- Gãy xương thuyền, xương nguyệt.
- Đứt gân duỗi ngón II tay trái, đã khâu nối đang điều trị chưa ổn định, chưa đủ cơ sở xếp tỷ lệ.
2. Kết luận: Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Châu Tiểu L là: 07% (Bảy phần trăm).
3. Kết luận khác:
+ Thương tích do vật sắc gây nên.
+ Vết mổ trùng vết thương hình chữ Z mặt sau cổ tay trái.
+ Gãy xương thuyền, xương nguyệt.
- Yêu cầu giám định bổ sung khi đương sự đã điều trị ổn.
Do thời điểm giám định thương tích ngày 09/8/2022 thì thương tích của Châu Tiểu L là đứt gân duỗi ngón II tay trái, đã khâu nối đang điều trị chưa ổn định, chưa đủ cơ sở xếp tỷ lệ. Nên Cơ quan điều tra đã ra quyết định trưng cầu bổ sung. Tại Bản kết luận giám định pháp y bổ sung về thương tích số 259/2022/TgT ngày 30/8/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh T đối với Châu Tiểu L kết luận:
1. Dấu hiệu chính qua giám định:
- Sẹo vết mổ trùng vết thương hình chữ Z mặt sau cổ tay trái, đứt gân duỗi ngón II tay trái, đã phẫu thuật khâu nối điều trị tốt.
- Gãy xương thuyền, xương nguyệt tay trái, ảnh hưởng ít đến động tác khớp cổ tay trái.
2. Kết luận: Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Châu Tiểu L là: 09% (Chín phần trăm).
3. Kết luận khác:
+ Thương tích do vật sắc gây nên.
+ Sẹo vết mổ trùng vết thương hình chữ Z mặt sau cổ tay trái, đứt gân duỗi ngón II tay trái, đã phẫu thuật khâu nối điều trị tốt. Tỷ lệ: 02% (Hai phần trăm).
+ Gãy xương thuyền, xương nguyệt tay trái, ảnh hưởng ít đến động tác khớp cổ tay trái. Tỷ lệ: 07% (Bảy phần trăm).
* Thu giữ vật chứng, đồ vật:
- 01 (một) áo sơ mi dài tay màu đen, tay áo bên trái có sọc xanh - đỏ, thân áo có thêu hình 03 con vật không rõ màu trắng (Đ mặc khi gây án).
- 01 (một) quần short bằng vải jean màu xanh, phía bên trong có nhãn mác ghi chữ JUNGLE-STORM (Đ mặc khi gây án).
Đối với con dao tự chế là vật chứng của vụ án bị cáo Trần Văn Đ trình bày khi chém V, L thì dao bị gãy trên đường về nhà Đ đã ném bỏ cán dao vào trong khu gò mã Cơ quan điều tra đã xác minh truy tìm nhưng không tìm được.
Tại bản cáo trạng số 105/CT-VKSCT ngày 14 tháng 10 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, Tỉnh T đã truy tố bị cáo Trần Văn Đ về tội “Cố ý gây thương tích” theo qui định tại điểm d khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng Viện kiểm sát truy tố, bị cáo biết mình sai, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội, lời thừa nhận tội của bị cáo phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên Tòa, hành vi phạm tội của bị cáo đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm d khoản 2 điều 134 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát giữ nguyên cáo trạng và không thay đổi. Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo. Do đó, đề nghị áp dụng điểm d khoản 2 điều 134, điểm s khoản 1 điều 51, điều 32, 38, 50 xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584, 590 Bộ luật dân sự Buộc bị cáo bồi thường cho bị hại V 5.500.000 đồng và bồi thường cho bị hại L 9.000.000 đồng.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu huỷ 01 (một) áo sơ mi dài tay màu đen, tay áo bên trái có sọc xanh - đỏ, thân áo có thêu hình 03 con vật không rõ màu trắng và 01 (một) quần short bằng vải jean màu xanh, phía bên trong có nhãn mác ghi chữ JUNGLE-STORM.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra truy tố xét xử:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện C, tỉnh T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 30/7/2022 tại xóm Gò thuộc ấp TL 1, xã TLĐ, huyện CT, tỉnh T bị cáo đã có hành vi dùng dao tự chế chém vào cổ tay trái của bị hại Châu Tiểu L gây thương tích và chém nhiều cái vào người bị hại Nguyễn Minh V gây thương tích. Xét lời thừa nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của các bị hại, các nhân chứng và chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với kết luận giám định pháp y. Bị cáo đã gây thương tích cho bị hại Châu Tiểu L theo kết quả giám định pháp y là 9% và gây thương tích cho bị hại Nguyễn Minh V là 4%. Bị cáo có 02 tiền án, ngày 13/8/2020 bị Toà án nhân dân huyện C, tỉnh T xử phạt 06 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, ngày 10/02/2022 bị Toà án nhân dân huyện C, tỉnh T xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích, nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Do đó có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần Văn Đ phạm tội “ Cố ý gây thương tích” tội phạm và hình phạt được qui định tại điểm d khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.
[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo có đầy đủ năng lực để nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm, bị cáo không có mâu thuẫn với các bị hại, chỉ vì tức giận khi thấy bạn gái cũ là bị hại L có tình cảm với bị hại V mà bị cáo có hành vi dùng hung khí nguy hiểm là dao tự chế để chém các bị hại. Hành vi của bị cáo thể hiện ý thức xem thường pháp luật, xâm phạm đến sức khỏe của các bị hại, đồng thời ảnh hưởng đến khả năng vận động và sức khỏe của các bị hại về lâu dài, gây mất an ninh trật tự tại địa P và gây tư tưởng hoang mang trong nhân dân. Do vậy xét tính chất mức độ phạm tội của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải xử phạt bị cáo với mức án thật nghiêm khắc. Tuy nhiên để có một mức án cho phù hợp đối với bị cáo, cần xem xét đến nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.
[4] Xét bị cáo có nhân thân xấu, ngày 10/11/2017 bị Toà án nhân dân huyện C, tỉnh T áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 12 tháng, ngày 06/3/2020 bị Toà án nhân dân huyện C, tỉnh T áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 18 tháng. Bị cáo đã có 02 tiền án, sau khi chấp hành hình phạt xong vẫn không biết ăn năn sửa đổi để trở thành người tốt mà vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội với bị hại L, bị hại V. Tuy nhiên, xét quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cãi về hành vi phạm tội của mình. Do vậy cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xem đây là tình tiết để giảm nhẹ phần nào mức án cho bị cáo khi quyết định hình phạt.
Xét tính chất mức độ phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để đủ cải tạo giáo dục các bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội đồng thời cũng để phòng chống tội phạm trong tình hình hiện nay.
[5] Đối với hành vi đánh bạc ăn thua bằng tiền của bị cáo Đ do chưa làm việc với người tham gia cùng nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện C, tỉnh T tách ra làm rõ, xử lý sau là có căn cứ.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, bị hại Nguyễn Minh V, Châu Tiểu L yêu cầu bị cáo Đ bồi thường chi phí điều trị vết thương, tiền thuốc, tiền ăn, tiền công lao động cho V là 5.500.000 đồng, cho L là 9.000.000 đồng. Bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của các bị hại, xét tự nguyện bồi thường của bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[7] Về xử lý vật chứng: 01 áo sơ mi dài tay màu đen, tay áo bên trái có sọc xanh - đỏ, thân áo có thêu hình 03 con vật không rõ màu trắng và 01 quần short bằng vải jean màu xanh, phía bên trong có nhãn mác ghi chữ JUNGLE-STORM là của bị cáo mặc khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo không có yêu cầu nhận lại và cũng không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
[8] Xét quan điểm luận tội và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có cơ sở, được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[9] Về án phí: Bị cáo Trần Văn Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo quy định tại điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Trần Văn Đ phạm tội: “Cố ý gây thương tích” Áp dụng điểm d khoản 2 điều 134, điều 32, 38, 50, điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Trần Văn Đ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 10/8/2022.
Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự và Điều 584, 585, 587, 590 Bộ luật dân sự.
Bị cáo Trần Văn Đ có trách nhiệm bồi thường cho bị hại Nguyễn Minh V số tiền 5.500.000 đồng (năm triệu năm trăm ngàn đồng), bồi thường cho bị hại Châu Tiểu L số tiền 9.000.000 đồng (chín triệu đồng). Thực hiện khi án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày anh V, chị L có đơn yêu cầu Thi hành án nếu bị cáo chậm trả tiền còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả theo qui định tại khoản 2 điều 357 Bộ luật dân sự.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy: 01 áo sơ mi dài tay màu đen, tay áo bên trái có sọc xanh - đỏ, thân áo có thêu hình 03 con vật không rõ màu trắng và 01 quần short bằng vải jean màu xanh, phía bên trong có nhãn mác ghi chữ JUNGLE-STORM Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 22/11/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh T.
Về án phí: Áp dụng điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 725.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cố ý gây thương tích (dùng dao tự chế) số 140/2022/HS-ST
Số hiệu: | 140/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tiền Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/12/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về