Bản án về tội cố ý gây thương tích (đòi nợ 200.000đ) số 61/2020/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 61/2020/HS-PT NGÀY 14/05/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHOẺ CỦA NGƯỜI KHÁC DO VƯỢT QUÁ GIỚI HẠN PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG

Ngày 14/5/2020, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 07/2020/TLPT-HS ngày 02/01/2020 đối với bị cáo Nguyễn Thị T, do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị T và kháng cáo của ông Nguyễn Văn T1 là người bị hại, đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 95/2019/HS-ST ngày 21/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thị T, sinh năm 1962;

Nơi cư trú: Thôn Đ, xã Y, huyện L, tỉnh B;

Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Làm ruộng; chức vụ: Không; trình độ học vấn: 05/10;

Bố đẻ: Nguyễn Văn Q, sinh năm 1934 (Đã chết); Mẹ đẻ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1936 (Đã chết); Gia đình có 07 anh chị em, bị cáo là thứ 3; Chồng: Nguyễn Xuân Đ, sinh năm 1960.

Bị cáo có 02 con, lớn sinh năm 1983, nhỏ sinh năm 1984; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 23/5/2019 đến ngày 10/6/2019 thay thế biện pháp ngăn chặn cho bảo lĩnh, hiện tại ngoại (Có mặt tại phiên tòa).

* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Văn N, Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư Nguyễn Đình H - Đoàn luật sư tỉnh Bắc Giang (Bị cáo T từ chối mời Luật sư N bào chữa cho bị cáo tại phiên toà phúc thẩm).

* Bị hại: Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1960 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn Đ, xã Y, huyện L, tỉnh B * Người bảo về quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Ông Phạm Xuân A, Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư Phạm Xuân A - Đoàn luật sư tỉnh Bắc Giang (Từ chối tham gia phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại).

Trong vụ án còn có 01 người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị nên cấp phúc thẩm không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thị T, sinh năm 1962 ở thôn Đ, xã Y, huyện L, tỉnh B là hàng xóm cùng thôn với gia đình ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1960. Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 01/3/2019, T và chồng là ông Nguyễn Xuân Đ, sinh năm 1960 đang ở nhà thì nghe thấy tiếng ông T1 gọi, T bảo ông Đ ra xem có việc gì, ông Đ đi ra cổng phụ phía sau nhà nói chuyện với ông T1 đang đứng ở phía bên kia bờ tường. Lúc này T nghe thấy tiếng ông T1 chửi bới nên đi ra hỏi ông Đ thì ông Đ bảo nợ ông T1 hơn 200.000 đồng (theo ông Đ khai là là tiền ghi lô đề), T đi ra bảo ông T1 “mày ra cổng không ra mày đứng đấy chửi gì, mày đe gì”, ông T1 nói “mày trả tiền tao không, tao chửi nhà mày đấy”, T nói lại “tao đẻ ra nhà mày đấy, không có chồng con tao nhà mày không có chỗ mà ở”, sau đó giữa ông T1 và T cãi chửi nhau qua lại khoảng 5 phút. Ông Đ và con dâu ông T1 là chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1992 ở cùng thôn đi ra can ngăn, khuyên ông T1 và T về nhà nhưng cả hai không nghe vẫn tiếp tục chửi nhau. Ông T1 đi qua cửa phụ sang vườn nhà T tiếp tục nói vài câu rồi lao lên phía trước dùng tay đấm về phía mặt T nhưng không trúng, T lùi lại phía sau dùng tay phải rút ở đống củi trong vườn 01 cành cây gỗ bạch đàn (chiều dài 1,5 mét; đường kính đầu gốc 4cm, đầu ngọn 3 cm) đưa lên cao qua đầu đập xuống theo hướng từ trên xuống dưới, từ trái sang phải trúng vào vùng trán thái dương phải ông T1 làm ông T1 gục xuống. Sau đó ông T1 được chị L và người nhà đưa đi cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang từ ngày 01/3/2019 đến 11/3/2019.

Ngay sau khi xảy ra sự việc, cơ quan công an đã tiến hành đến làm việc. Quá trình làm việc, Nguyễn Thị T đã giao nộp 01 cành cây gỗ bạch đàn chiều dài 1,5 mét, đường kính đầu gốc 4cm, đường kính đầu ngọn 3 cm dùng gây thương tích cho ông T1.

Ngày 08/3/2019, ông T1 có đơn đề nghị xử lý Nguyễn Thị T về hành vi gây thương tích.

Tại giấy chứng nhận thương tích của Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang xác định: Ông Nguyễn Văn T1 vào viện ngày 01/3/2019, ra viện 11/3/2019, tình trạng thương tích lúc vào viện: Đau đầu nhiều, buồn nôn, sưng nề vùng đỉnh phải, tụ máu dưới màng cứng mỏng vùng đỉnh phải, hình ảnh vỡ lún xương trán- đỉnh phải.

Ngày 10/4/2019, Cơ quan điều tra ra quyết định trưng cầu giám định số 81, trưng cầu trung tâm pháp y- Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang giám định tỷ lệ thương tích của ông T1, cơ chế, chiều hướng hình thành thương tích, chiếc gậy gỗ do T giao nộp có gây ra thương tích của ông T1 không? Ngày 12/4/2019, trung tâm pháp y- Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang có bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 8794/19/TgT kết luận:

- Thương tích vết sẹo mổ vùng trán- đỉnh- thái dương phải+ Tụ máu ngoài màng cứng+ X-quang: Hình ảnh mảng khuyết xương sọ thái dương đỉnh phải đã được che phủ bằng vật liệu nhân tạo kích thước ~ 60x86mm: 46%.

- Tỷ lệ tổn thương cơ thể của ông T1 do thương tích gây nên là 46% - Cơ chế, chiều hướng hình thành thương tích: Thương tích do vật tày gây nên, chiều hướng từ trên xuống dưới.

- Vật gửi giám định gây được thương tích cho ông T1.

Ngày 30/5/2019, Cơ quan điều tra tiến hành thực nghiệm điều tra để bị can và ông T1 diễn tả lại toàn bộ hành vi, tư thế, động tác khi T dùng gậy gỗ đập vào đầu ông T1. Kết quả: Các hành động theo sự trình bày của T và ông T1 đã được thực hiện đầy đủ, bị can thực hiện phát đập như lời khai về phía ông T1 trúng phần thái dương phải phù hợp với cơ chế hình thành dấu vết thương tích trên cơ thể ông T1.

Vật chứng của vụ án: 01 cành cây gỗ bạch đàn bị can dùng đánh ông T1, Cơ quan điều tra chuyển cùng hồ sơ vụ án để giải quyết.

Về dân sự: Bị cáo chưa bồi thường gì cho bị hại, nay ông T1 yêu cầu bị cáo bồi thường tiền chi phí điều trị, bồi dưỡng, tiền mất thu nhập, tổn thất tinh thần, tổng số tiền là 101.756.000 đồng, bao gồm các khoản: Toàn bộ tiền thuốc có hóa đơn là 25.456.000đồng; 10 ngày nằm viện x 250.000đồng = 2.500.000đồng; 02 người nuôi là 20 ngày x 250.000 = 4.000.000đồng; Tiền thuê xe đi 04 lần ( cả bệnh viện Việt Đức) là 4.000.000đồng; Tiền bồi dưỡng thuốc men chung là 20.000.000đồng; Tiền tổn thất tinh thần là 20 tháng lương = 29.800.000đồng; Tiền mất thu nhập 60 ngày không làm việc x 250.000= 15.000.000đồng;

Về lý do ông T1 sang đòi tiền ông Đ sau đó xảy ra cãi nhau, ông T1 khai sang đòi tiền ông Đ nợ trước đó, ông Đ khai số tiền nợ ông T1 là do ghi lô đề. Cơ quan điều tra đã tiến hành đối chất giữa ông T1 và ông Đ, ngoài lời khai của ông Đ không có căn cứ khác để chứng minh giữa ông T1 và ông Đ có việc đánh bạc với nhau nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thị T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Bản cáo trạng số 95/2019/CT-VKS LG ngày 25/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị T về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (thuộc trường hợp “dùng hung khí nguy hiểm” theo điểm a khoản 1 điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015).

Bản án hình sự sơ thẩm số: 95/2019/HS-ST ngày 21/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị T phạm tội "Cố ý gây thương tích".

Áp dụng điểm c khoản 3 điều 134; Điều 38; khoản 2 điều 51; Điều 47; Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị T 06 (sáu) năm, 06 (sáu) tháng tù. Thời gian tù tính từ ngày bị bắt thi hành án nhưng trừ đi thời gian bị bắt tạm giam từ ngày 23/5/2019 đến ngày 10/6/2019.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584; Điều 585; Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo Nguyễn Thị T phải bồi thường cho ông Nguyễn Văn T1 số tiền 58.145.000đồng (trong đó có: tiền thuốc có hóa đơn; tiền mất thu nhập; tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe; tiền xe; tiền mất thu nhập;) Buộc bị cáo Nguyễn Thị T phải bồi thường cho bà Nguyễn Thị V tiền mất thu nhập trong thời gian chăm sóc ông T1 là 2.500.000đồng.

Ngoài ra bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, quyền yêu cầu thi hành án, lãi suất chậm thi hành án, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 02/12/2019, bị cáo Nguyễn Thị T nộp đơn kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ vụ án: Đề nghị cho giám định lại thương tích của người bị hại là ông Nguyễn Văn T1. Đề nghị xem xét giảm nhẹ chuyển tội danh sang tội nhẹ hơn là tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng”, quy định tại khoản 1 Điều 136 BLHS năm 2015. Đề nghị xem xét giảm phần bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.

Ngày 04/12/2019, ông Nguyễn Văn T1 là người bị hại kháng cáo đề nghị tăng hình phạt tù đối với bị cáo Nguyễn Thị T và tăng mức bồi thường cho ông. Ngày 11/5/2020, ông Nguyễn Văn T1 rút toàn bộ nội dung kháng cáo với lý do trong thời gian chờ xét xử phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thị T đã nhận thấy khuyết điểm và tự nguyên bồi thường thiệt hại cho ông số tiền là 60.645.000đồng như án sơ thẩm đã tuyên. Ông đề nghị Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo T. Ông xin phép được vắng mặt tại phiên toà phúc thẩm.

Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo Nguyễn Thị T xin rút nội dung kháng cáo về giảm nhẹ bồi thường cho người bị hại với lý do là trong thời gian chờ xét xử phúc thẩm, bị cáo đã nhận thấy khuyết điểm và tự nguyên bồi thường thiệt hại cho ông T1 tổng số tiền là 60.645.000đồng như án sơ thẩm đã tuyên, bị cáo xin rút nội dung đề nghị giám định lại thương tích của người bị hại là ông Nguyễn Văn T1 với lý do là cơ quan giám định thương tích của người bị hại là có căn cứ và rút nội dung đề nghị xem xét chuyển tội danh sang tội nhẹ hơn là tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” với lý do là bản án sơ thẩm của Toà án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang đã xét xử bị cáo về tội “ Cố ý gây thương tích” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Bị cáo thay đổi nội dung kháng cáo chỉ đề nghị cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và xin được hưởng án treo với lý do bị cáo đã nhận ra tội lỗi của mình và tự nguyên bồi thường thiệt hại cho ông T1 tổng số tiền là 60.645.000đồng như án sơ thẩm đã tuyên, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Mặt khác, bố đẻ bị cáo được nhà nước tặng Huy chương kháng chiến hạng nhất, bố chồng bị cáo được tặng Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng. Hiện tại chồng bị cáo bị bệnh sơ gan cổ chướng giai đoạn cuối, bản thân bị cáo bị bệnh huyết áp cao.

Đại diện VKSND tỉnh Bắc Giang thực hành quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đưa ra đề nghị xem xét các vấn đề kháng cáo mà bị cáo nêu ra đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị T sửa bản án sơ thẩm giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo xử phạt bị cáo T từ 2 năm 6 tháng đến 3 năm tù. Bị cáo Nguyễn Thị T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Bị cáo Nguyễn Thị T không có ý kiến tranh luận, đối đáp gì.

Bị cáo Nguyễn Thị T nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị T và ông Nguyễn Văn T1 là người bị hại đã được làm trong thời hạn kháng cáo và gửi đến Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự nên được coi là đơn kháng cáo hợp pháp. HĐXX chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của bị cáo và người bị hại theo trình tự phúc thẩm.

Trước khi mở phiên toà phúc thẩm, ngày 11/5/2020 ông Nguyễn Văn T1 là người bị hại có đơn xin rút toàn bộ nội dung kháng cáo. Ngày 12/5/2020 Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang đã có ra văn bản thông báo số: 17/2020/TB-TA về việc ông Nguyễn Văn T1 là ngườ bị hại đã có đơn xin rút toàn bộ nội dung kháng cáo. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét đối với nội dung kháng cáo của ông T1.

Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo Nguyễn Thị T xin rút nội dung kháng cáo về giảm nhẹ bồi thường cho người bị hại, đề nghị cho giám định lại thương tích của người bị hại là ông Nguyễn Văn T1 và đề nghị xem xét giảm nhẹ chuyển tội danh sang tội nhẹ hơn là tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng”. Bị cáo thay đổi nội dung kháng cáo chỉ đề nghị cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và xin được hưởng án treo.

Xét thấy việc bị cáo rút một phần nội dung kháng cáo tại phiên toà phúc thẩm là hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc, xúi giục. Căn cứ vào khoản 3 Điều 342 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm với những nội dung kháng cáo nêu trên đối với bị cáo Nguyễn Thị T.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Thị T thì thấy: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 01/3/2019, tại nhà Nguyễn Thị T ở thôn Đ Cống, xã Yên Mỹ, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang, do mâu thuẫn trong việc vay nợ tiền giữa chồng T là ông Nguyễn Xuân Đ với ông Nguyễn Văn T1 nên giữa T và ông T1 xảy ra cãi chửi nhau. Trong lúc xô xát, T nhặt 01 cành cây gỗ bạch đàn dài 1,5 mét, đường kính đầu gốc 4cm, đường kính đầu ngọn 3cm dơ lên cao đập xuống trúng vùng thái dương phải ông T1. Hậu quả: Ông T1 bị khuyết xương sọ thái dương đỉnh phải, tỷ lệ tổn thương cơ thể 46%.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Thị T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” được quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Thuộc trường hợp dùng hung khí nguy hiểm, theo điểm a, khoản 1 điều 134 BLHS). Từ những nội dung trên án sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Thị T về tội “Cố ý gây thương tích”, là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị T đề nghị giảm hình phạt đối với bị cáo và xin được hưởng án treo. Hội đồng xét xử thấy: Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo T chỉ kháng cáo giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo nên các nội dung khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo Nguyễn Thị T thì thấy:

Về tình tiết tăng nặng: Án sơ thẩm xác định bị cáo không có tình tiết tăng nặng theo quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, là có căn cứ.

Về tình tiết giảm nhẹ: Án sơ thẩm xác định bị cáo có bố đẻ là ông Nguyễn Văn Quang được nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhất và việc bị cáo phạm tội cũng do một phần lỗi của bị hại nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, là có căn cứ.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Thị T là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân, thể hiện sự coi thường pháp luật của Nhà nước. Do vậy, hành vi của bị cáo cần phải nghiêm trị bằng pháp luật hình sự, cần lên một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra để răn đe và phòng ngừa chung. Án sơ thẩm xử phạt bị cáo mức án 06 năm 06 tháng tù là tương xứng với hành vi phạm tội đối với bị cáo.

Tại quá trình xét xử phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thị T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, xuất trình thêm các tình tiết giảm nhẹ mới đó là: Trong thời gian chờ xét xử phúc thẩm, bị cáo nhận thấy khuyết điểm và tự nguyên bồi thường thiệt hại cho ông T1 tổng số tiền 60.645.000đồng như án sơ thẩm đã tuyên, ông Nguyễn Văn T1 là người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo có chồng là Nguyễn Xuân Đ hiện đang điều trị bệnh xơ gan ChilC- Theo dõi nhiễm trùng dịch cổ trướng, viêm phổi, tăng huyết áp tứ phát. Bị cáo có bố đẻ là ông Nguyễn Văn Quang được nhà nước tặng Huy chương kháng chiến hạng nhất, bố chồng là ông Nguyễn Xuân Đ được tặng Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng, bản thân bị cáo cũng đang điều trị bệnh huyết áp cao.

Hội đồng xét xử thấy bị cáo T có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nghiệm hình sự mới phát sinh tại cấp phúc thẩm chưa được xem xét tại cấp sơ thẩm theo quy định tại điểm b, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét giảm nhẹ hình phạt, không chấp nhận nội dung kháng cáo xin hưởng án treo đối với bị cáo. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt liền kề theo quy định tại khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do sửa án sơ thẩm nên bị cáo Nguyễn Thị T không phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 342, điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.

[1]. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị T về nội dung giảm nhẹ bồi thường cho người bị hại, đề nghị cho giám định lại thương tích của người bị hại và đề nghị xem xét giảm nhẹ chuyển tội danh sang tội nhẹ hơn là tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng”.

[2]. Không chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo, chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Thị T, sửa bản án sơ thẩm.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị T phạm tội "Cố ý gây thương tích".

Áp dụng điểm c khoản 3 điều 134; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51;khoản 1 Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T 03 (Ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, nhưng trừ đi thời gian bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 23/5/2019 đến ngày 10/6/2019.

[3]. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Thị T không phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm

[4] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

74
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích (đòi nợ 200.000đ) số 61/2020/HS-PT

Số hiệu:61/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về