TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 42/2020/HS-PT NGÀY 15/05/2020 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM VÀ MÔI GIỚI MẠI DÂM
Ngày 15 tháng 5 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 204/2019/TLPT-HS ngày 18 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Đại V và các bị cáo khác do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 249/2019/HS-ST ngày 16 tháng 10 năm 2019 của Toà án nhân dân thành phố Nha Trang.
Các bị cáo có kháng cáo:
1. Nguyễn Đại V, sinh năm 1978, tại Hà Nội; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số n Phố K, Quận Đ, Hà Nội; Chỗ ở: Số m, đường N, phường L, thành phố T, tỉnh Khánh Hòa; Nghề nghiệp: Quản lý nhà nghỉ; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đại Đ và bà Nguyễn Thị H; Có vợ và hai con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ ngày 16/10/2018; Thay thế biện pháp ngăn chặn (Cấm đi khỏi nơi cư trú) ngày 25/10/2018: Có mặt;
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Đại V: Ông Đặng Văn P, Luật sư Văn phòng luật sư Đặng Văn Pháo, Đoàn luật sư tỉnh Khánh Hòa: Có mặt;
2. Nguyễn Mạnh T, sinh năm 1983, tại Phú Thọ; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xã P, thị xã N, tỉnh Phú Thọ; Nơi ở: Thôn V, phường H, thành phố T, tỉnh Khánh Hòa; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Công T và bà Tống Thị Th; Có vợ và một con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ ngày 16/10/2018; Thay thế biện pháp ngăn chặn (Cấm đi khỏi nơi cư trú) ngày 25/10/2018: Có mặt;
3. Nguyễn Xuân Th, sinh năm 1973, tại Khánh Hòa; Nơi cư trú: Số l đường N, phường L, thành phố T, tỉnh Khánh Hòa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Xuân S và bà Đinh Thị N; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Bị xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc” (theo Bản án số 239/2007/HSPT ngày 23/10/2007 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa); Bị bắt tạm giữ ngày 16/10/2018; Thay thế biện pháp ngăn chặn (Cấm đi khỏi nơi cư trú) ngày 25/10/2018; Bị tạm giam trong vụ án “Cướp giật tài sản”: Có mặt.
Ngoài ra còn có bị cáo Huỳnh Công Đ không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Mạnh T là người đã từng sinh sống ở Nga, biết tiếng Nga và có quen biết một số gái bán dâm người Nga đang du lịch tại thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. T thỏa thuận với gái bán dâm là làm trung gian môi giới người mua dâm và gái bán dâm, mỗi lượt bán dâm T trả cho người bán dâm 100USD. Khoảng tháng 4/2017 đến 15/10/2018, T cùng với Nguyễn Xuân Th và Huỳnh Công Đ (là người chạy xe ôm) bàn bạc làm trung gian dẫn dắt mua bán dâm để hưởng lợi. Địa điểm mua bán dâm là nhà nghỉ M do Nguyễn Đại V làm chủ. Khi có khách hàng đi xe ôm có nhu cầu mua dâm liên hệ với Th, Đ thì Th, Đ đưa ra mức giá và trực tiếp thu tiền của khách từ 5.000.000đ đến 7.000.000đ/lượt và đưa đến nhà nghỉ M đồng thời báo cho T biết để T điều gái bán dâm đến. Sau mỗi lượt mua, bán dâm, Th, Đ đưa cho T 3.500.000đ, đưa cho V 250.000đ tiền thuê phòng và hưởng lợi từ 1.250.000đ đến 3.250.000đ; T đưa cho gái bán dâm 100USD và hưởng lợi 1.200.000đ.
Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 15 tháng 10 năm 2018, Trần Minh T gọi điện cho Nguyễn Xuân Th hỏi mua dâm gái người Nga. Th nói giá 5.000.000đ/lượt và chở Minh T đến nhà trọ M gặp V thuê phòng 5.. rồi điện thoại báo cho T. T điện thoại báo cho Anz (quốc tịch Nga) đến phòng 5.. nhà nghỉ M để bán dâm cho khách.
Khoảng 20 giờ 40 phút ngày 15 tháng 10 năm 2018, Phạm Văn T gọi điện cho Huỳnh Công Đ hỏi mua dâm gái người Nga. Đ nói giá 7.250.000đ/lượt và chở Văn T đến nhà trọ M gặp V thuê phòng 4.. rồi điện thoại báo cho T. T điện thoại báo cho Ekat (quốc tịch Nga) đến phòng 4.. nhà nghỉ M để bán dâm cho khách.
Khoảng 22 giờ 00 phút ngày 15 tháng 10 năm 2018, Tổ công tác của Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Khánh Hòa bắt quả tang hành vi mua bán dâm giữa Trần Minh T với Anz và giữa Phạm Văn T với Ekat tại Phòng số 5.. và 4..
của nhà nghỉ M.
Quá trình điều tra V, T, Th, Đ khai nhận đã nhiều lần chứa mại dâm và môi giới mại dâm.
Tại phiên tòa sơ thẩm, Nguyễn Mạnh T khai chỉ dẫn hai cô gái người Nga đến thuê phòng trọ tại nhà trọ M, không môi giới cho họ bán dâm. Nguyễn Xuân Th khai Th chỉ một lần duy nhất chở ông Trần Minh T đến nhà trọ M để mua dâm vào ngày 15/10/2018.
Tại bản án sơ thẩm số 249/2019/HS-ST ngày 16 tháng 10 năm 2019, Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang đã căn cứ điểm c khoản 2 Điều 327, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt Nguyễn Đại V 05 năm tù về tội “Chứa mại dâm” và phạt bổ sung 10 triệu đồng; Căn cứ điểm d, đ khoản 2 Điều 328, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt Nguyễn Mạnh T 04 năm 06 tháng tù về tội “Môi giới mại dâm” và phạt bổ sung 10 triệu đồng; Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 328 Bộ luật Hình sự xử phạt Nguyễn Xuân Th 04 năm tù về tội “Môi giới mại dâm”;
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn xử phạt Huỳnh Công Đ 03 năm tù về tội “Môi giới mại dâm”, quyết định xử lý vật chứng, áp dụng biện pháp tư pháp, án phí và quyền kháng cáo của bị cáo.
Ngày 28 và 29 tháng 10 năm 2018, các bị cáo Nguyễn Xuân Th, Nguyễn Đại V và Nguyễn Mạnh T lần lượt có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm.
Ngày 24/12/2019, bị cáo Nguyễn Đại V giao nộp Biên lai thu tiền của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nha Trang thu của bị cáo số tiền phạt bổ sung và án phí (10.200.000đ) theo Bản án sơ thẩm, bản sao Bảng vàng danh dự của ông Nguyễn Xuân S và bà Ngô Thị Tr (là ông, bà nội của bị cáo) và bản sao Huân chương kháng chiến hạng nhì của ông Nguyễn Xuân S.
Tại phiên tòa, các bị cáo đều khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu và cho là bản án sơ thẩm kết tội các bị cáo là đúng người, đúng tội.
Bị cáo Nguyễn Đại V đề nghị xem xét tình tiết bố và ông nội bị cáo là người đã tham gia cách mạng, bị cáo đã nộp tiền phạt và án phí để giảm hình phạt cho bị cáo.
Bị cáo Nguyễn Mạnh T và bị cáo Nguyễn Xuân Th giữ nguyên kháng cáo xin giảm hình phạt. Bị cáo Nguyễn Mạnh T còn giao nộp Biên lai thu tiền của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nha Trang thu của bị cáo số tiền phạt bổ sung và án phí (10.200.000đ) theo Bản án sơ thẩm, các bản photo Huân chương chiến sĩ vẻ vang, Huân chương chiến công của bố, anh và chị bị cáo và đề nghị xem xét các tình tiết này để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Phát biểu tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị: Áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Nguyễn Mạnh T, Nguyễn Xuân Th và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với Nguyễn Đại V và Nguyễn Mạnh T, sửa bản án sơ thẩm, giảm hình phạt cho các bị cáo.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Đại V đồng ý với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát và đề nghị xem xét khoan hồng đối với bị cáo vì bị cáo V là người chưa có tiền án, tiền sự, được sinh ra trong gia đình có công với nước; Trước và sau khi phạm tội bị cáo đều chấp hành tốt pháp luật của nhà nước; Sau khi phạm tội, bị cáo đã nhận ra sai phạm, ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo giúp cơ quan chức năng nhanh chóng làm sáng tỏ vụ án, tự nguyện nộp số tiền phạt và án phí sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai của các bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác do các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm thu thập được. Đã đủ cơ sở xác định: Ngày 15 tháng 10 năm 2018, thông qua dẫn dắt của Nguyễn Mạnh T, Nguyễn Xuân Th và Huỳnh Công Đ, Nguyễn Đại V đã cho thuê phòng của nhà trọ “M” (cơ sở kinh doanh do V quản lý) để Trần Minh T, Phạm Văn T và Anz, Ekat thực hiện việc mua, bán dâm.
[2] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự công cộng, trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, không phù hợp với thuần phong, mỹ tục. Bản án sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Đại V về tội “Chứa mại dâm” theo điểm c Khoản 2 Điều 327 Bộ luật Hình sự và xét xử các bị cáo Nguyễn Mạnh T, Nguyễn Xuân Th về tội “Môi giới mại dâm” theo khoản 2 Điều 328 bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Bản án sơ thẩm đã xem xét, áp dụng đúng các tình tiết của vụ án và quyết định hình phạt phù hợp đối với các bị cáo. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Nguyễn Mạnh T, Nguyễn Xuân Th đã tỏ ra ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình. Các bị cáo Nguyễn Đại V, Nguyễn Mạnh T đã nộp đủ số tiền phạt theo quyết định của bản án sơ thẩm và giao nộp các giấy tờ, tài liệu xác định gia đình các bị cáo là gia đình có công với nước. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới ngoài các tình tiết đã được bản án sơ thẩm xem xét áp dụng. Vì vậy, kháng cáo xin giảm hình phạt của các bị cáo là có cơ sở để chấp nhận.
[4] Do kháng cáo được chấp nhận nên các bị cáo không phải chịu án phí phúc thẩm.
[5] Các nội dung khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ Điểm b Khoản 1 Điều 355, Điểm c Khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, Sửa một phần bản án sơ thẩm:
1.1. Căn cứ Điểm c Khoản 2 Điều 327, Điểm s Khoản 1 Điều 51, Khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật Hình sự, Xử phạt: Nguyễn Đại V 04 (bốn) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Chứa mại dâm”, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.
1.2. Căn cứ điểm d, đ khoản 1 Điều 328, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, Xử phạt: Nguyễn Mạnh T 03 (ba) năm 09 (chín) tháng tù về tội “Môi giới mại dâm”; Thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.
1.3. Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 328, điểm s khoản 1 Bộ luật Hình sự, Xử phạt: Nguyễn Xuân Th 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Môi giới mại dâm”; Thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.
2. Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBNVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội chứa mại dâm và môi giới mại dâm số 42/2020/HS-PT
Số hiệu: | 42/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về