TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 102/2022/HSPT NGÀY 22/02/2022 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM VÀ MÔI GIỚI MẠI DÂM
Ngày 22 tháng 02 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 224/2021/TLPT-HS ngày 11 tháng 3 năm 2021 đối với các bị cáo Phạm Đức H, Trần Văn G, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2021/HSST ngày 19/01/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh.
- Các bị cáo có kháng cáo:
1. Phạm Đức H; tên gọi khác: Không; sinh ngày 08/02/1990 tại Quảng Ninh; nơi ĐKNKTT: Tổ 8, khu 6, phường Bãi C, thành phố Hạ L, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do, trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn Tvà bà Đàm Thị T1; có vợ là Đặng Thị Lan A và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt quả tang ngày 07/8/2020, hiện tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Quảng Ninh; có mặt.
2. Trần Văn G; tên gọi khác: Không; sinh ngày 02/9/1987 tại Quảng Ninh; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 4B, khu Quỳnh T, phường Đại Yên, thành phố Hạ L, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Q và bà Trần Thị T1 ; có vợ là Nguyễn Thị T2 và có 01 con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt quả tang ngày 07/8/2020, hiện tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Quảng Ninh; có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Phạm Đức H do Tòa án chỉ định: Luật sư Nguyễn Thị H - Luật sư Ánh A thuộc Đoàn luật sư tỉnh Quảng Ninh; có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Trần Văn G do Tòa án chỉ định: Luật sư Đào Bá Y - Văn phòng Luật sư Ánh thuộc Đoàn luật sư tỉnh Quảng Ninh; có mặt.
Ngoài ra, trong vụ án còn có bị cáo khác, nhưng không kháng cáo và không bị kháng nghị, nên Tòa án không triệu tập đến phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa phúc thẩm thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Năm 2018, Phạm Đức H và Trần Văn G thuê nhà số 844 (thuộc tổ 10, khu 9B, phường Bãi C, thành phố Hạ L, tỉnh Quảng Ninh) của vợ chồng ông Nguyễn Bá V, bà Bùi Thị T3 để chứa mại dâm và lấy tên quán là Cafe 669. Đến năm 2019, cả hai thuê tiếp căn nhà số 846 (cũng của ông V - bà T3), với số tiền thuê hai căn là 12.000.000đ/tháng. Cuối năm 2019, G thuê Hoàng Ngọc H để làm quản lý quán Cafe 669, với nhiệm vụ trực tiếp nhận tiền của người mua dâm để vào sổ theo dõi số tiền thu, trả cho gái bán dâm và số tiền chi phí sinh hoạt hàng ngày tại quán. H và G trả cho H1 từ 3.000.000đ đến 4.000.000đ/tháng. Nguồn gái bán dâm là do các cô gái tự đến xin làm gái bán dâm tại quán hoặc tự thuê nhà ở trọ bên ngoài.
Tại quán Cafe 669, thường xuyên có từ 6 đến 12 gái bán dâm ăn, ở và bán dâm tại quán, khi người mua dâm đến thì được tự chọn gái bán dâm, giá bán dâm theo thỏa thuận từ 200.000đ - 1.200.000đ/lần, theo thỏa thuận số tiền bán dâm thu được sẽ chia cho gái bán dâm một nửa, số còn lại là của H , G . Ngoài tổ chức chứa mại dâm tại quán thì H , G và H1 còn có số điện thoại, hình ảnh của gái bán dâm không ở tại quán để khi người mua dâm có yêu cầu mua dâm tại nơi khác, thì H , G môi giới bán dâm bằng cách gửi hình ảnh gái bán dâm để người mua dâm chọn và thống nhất giá cả, rồi trực tiếp thu tiền. Sau đó, liên lạc với gái bán dâm thỏa thuận giá từ 1.200.000đ đến 4.000.000đ/ngày, tùy thuộc vào địa điểm, số tiền bán dâm được chia đôi. Sau khi đã thỏa thuận, thống nhất thì H , G đón và đưa gái bán dâm đến các địa điểm theo yêu cầu của người mua dâm. Hàng ngày, H1 là người tổng hợp số tiền bán dâm tại quán, số tiền môi giới bán thu được để trả trực tiếp cho gái bán dâm, trả chi phí sinh hoạt hàng ngày tại quán, số còn lại đưa cho H , G .
Chiều ngày 06/8/2020, thông qua người quen, Đỗ Văn T2 xin được số điện thoại của H và gọi cho H yêu cầu cho 03 cô gái bán dâm qua đêm trên tầu biển du lịch, H đồng ý và bảo T2 gọi điện di động cho G . T2 thỏa thuận với G điều 03 cô gái bán dâm từ trưa ngày 7/8/2020 đến trưa ngày 08/8/2020. G đồng ý và gửi ảnh các gái bán dâm để T2 chọn. Sau khi T2 chọn xong, G báo giá là 8.000.000đ/người, T2 đồng ý, hẹn đón 03 cô gái bán dâm tại cầu tàu Tuần Châu, thành phố Hạ L rồi G cung cấp cho T2 số tài khoản, để T2 chuyển số tiền 24.000.0000đ. Sau đó, G gọi điện thoại đi động cho H1 để thông báo tên gái bán dâm mà T2 đã chọn và địa điểm T2 đón gái bán dâm, H1 gọi điện cho 03 cô gái bán dâm là Nguyễn Thị L (tức H3), Lý Thị T4(tức V), Bàn Thị T5 (tức N2, lúc này đang ở tại nhà trọ ở phường Cái D1), hẹn đến quán Cafe 669 để H1 đưa đi bán dâm ở trên tàu du lịch.
Khoảng 10 giờ ngày 07/8/2020, H1 thuê xe taxi đưa các chị Lan, Trọng, T5 đến chỗ T2 ở khách sạn Paradise Suites Tuần Châu, rồi quay về quán. Sau đó, T2 và các anh Hoàng Minh Đoài, Nguyễn T2 Anh cùng các chị L , Trọng, T5 lên tàu President Cruise đi ra vịnh Hạ L để mua bán dâm. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, Công an tỉnh Quảng Ninh phối hợp với Cục Cảnh sát hình sự Bộ Công an kiểm tra hành chính tầu President Cruise phát hiện tại các phòng 301, 304, 305, có các đối tượng mua bán dâm như sau: T2 và L ; T2 Anh và T5 ; Đoài và Trọng, thu giữ trong mỗi phòng 01 bao cao su đã qua sử dụng.
Cũng trong khoảng thời gian này, G và H1 đang ở quán Cafe 669, thì có Lò Văn D (ban đầu khai là Hoàng Bảo D) đi cùng Hà Văn T6 và Nguyễn Văn Q đi một mình đến quán gặp G , H1 hỏi mua dâm. G , H1 đồng ý và thống nhất giá là 300.000đ/người. Sau đó, cả ba đi vào chọn gái bán dâm. Trong đó, D chọn Lê Thị A đi vào phòng số 1, Q chọn Thèn Thị Lê đi vào phòng số 2, Thêm chọn Bàn Thị C đi vào phòng số 7. Đến 21 giờ 30 cùng ngày, trong khi 03 đôi nam nữ trên đang thực hiện hành vi mua bán dâm thì bị Công an tỉnh Quảng Ninh phối hợp với Cục cảnh sát hình sự Bộ công an bắt quả tang. Ngay sau đó H cũng có mặt tại quán. Thu giữ tại quán 03 quyển sổ ghi chép thu tiền bán dâm, môi giới bán dâm hàng ngày và số tiền 1.400.000đ kẹp trong sổ, trong đó có 1.300.000đ là tiền chứa mại dâm, thu giữ 03 (ba) điện thoại di động của H , G và H1 .
Căn cứ vào lời khai của Phạm Đức H, Trần Văn G, Hoàng Ngọc H và các gái bán dâm về phương thức bán dâm, cách thức ghi sổ, số tiền hàng ngày được ghi chép trong 03 quyển sổ. Trong đó, quyển sổ số 1 là sổ chính, ghi chép toàn bộ hoạt động, 02 quyển sổ số 2 và số 3 là sổ phụ, sau khi ghi chép thì tổng hợp vào sổ số 1. Số tiền bán dâm thu được, số tiền trả cho gái bán dâm, số tiền chi phí từ ngày 31/12/2019 đến ngày 07/8/2020 (bao gồm cả số tiền chuyển khoản cho H và thu của H1 ngày 07/8/2020), được xác định như sau:
- Tổng số đã thu là: 2.144.330.000đ, trong đó số tiền bán dâm thu tại quán là: 1.589.730.000đ (Một tỷ năm trăm tám mươi chín triệu bảy trăm ba mươi nghìn) số tiền môi giới bán dâm là: 554.600.000đ.
Riêng ngày 7/8/2020, số tiền môi giới bán dâm là 24.000.000đ và số tiền chứa mại dâm là 1.300.000đ chưa chia cho gái bán dâm.
- Số tiền đã trả cho gái bán dâm là 1.059.515.000đ, trong đó cho gái bán dâm tại quán là 794.215.000đ, cho gái bán dâm thông qua môi giới là 265.300.000đ. Số tiền chi phí cho hoạt động chứa mại dâm là: 236.546.000đ. Số tiền thu lời là: 848.269.000đ. Trong đó, tiền chứa mại dâm tại quán 589.690.000đ, tiền môi giới mại dâm là 289.300.000đ.
Quá trình điều tra, các bị cáo đều khai nhận: Sau khi anh T2 gọi điện cho G thỏa thuận xong thì G gọi lại cho H báo thống nhất giá là 8.000.000đ, địa điểm mua dâm là trên tàu du lịch do anh T2 tự chọn. Thời gian từ 10 giờ ngày 07/8/2020 đến 12 giờ ngày 08/8/2020, giá bán dâm là 24.000.000đ. Việc theo dõi hoạt động mại dâm được H1 ghi trong số như trên.
Trần Văn G khai: Quá trình cùng H, H1 tổ chức hoạt động chứa mại dâm và môi giới mại dâm tại hai căn nhà số 844 và 846 đường Cái D1, tại đây, có khoảng từ 6-12 gái bán dâm ăn, ở sinh hoạt. Khách du lịch muốn đưa gái bán dâm lên tàu thì liên hệ trước để báo số lượng gái bán dâm và số ngày đi. Sau đó, G gửi ảnh cho khách chọn xong thì G gọi xe tắc xi đưa đi. Ngày 07/8/2020, khi buổi sáng nhóm G có tổ chức cho 03 gái bán dâm là Nguyễn Thị L, Lý Thị T, Bàn Thị T5 trên tàu du lịch và 03 gái bán dâm là Thèn Thị L5, Lê Thị A và Bàn Thị C bán dâm tại quán Cafe 669 thì bị bắt quả tang.
Hoàng Ngọc H khai: H1 có quen biết với G từ trước, khoảng tháng 12/2019, G gọi điện bảo H1 đến quán ở số nhà 844 khu Cái D1, phường Bãi C, để làm quản lý gái bán dâm, đưa gái bán dâm cho khách, thu tiền của khách. G sẽ trả tiền công cho H1 từ 3.000.000đ đến 4.000.000đ/tháng. H1 đồng ý. H1 đã được nhận khoảng trên 30.000.000đ.
Chị Đặng Thị Lan A là vợ Phạm Đức H đã tự nguyện nộp lại số tiền 24.000.000đ. Chị Lan Anh không yêu cầu bị cáo H phải trả lại cho chị số tiền này.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2021/HSST ngày 19/01/2021, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã quyết định:
Tuyên bố các bị cáo Phạm Đức H, Trần Văn G phạm tội “Chứa mại dâm” và tội “Môi giới mại dâm”.
- Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 327; các điểm c, d, đ, e khoản 2 Điều 328; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55; Điều 58 Bộ luật hình sự.
+ Xử phạt bị cáo Phạm Đức H 10 (mười) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Chứa mại dâm”; 18 (mười tám) tháng tù về tội “Môi giới mại dâm”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Phạm Đức H phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 12 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt 07/8/2020.
- Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 327; các điểm c, d, đ, e khoản 2 Điều 328; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55; Điều 58 Bộ luật hình sự.
+ Xử phạt bị cáo Trần Văn G 15 (mười lăm) năm tù về tội “Chứa mại dâm”; 03 (ba) năm tù về tội “Môi giới mại dâm”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Trần Văn G phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 18 (mười tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt 07/8/2020.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt, trách nhiệm dân sự đối với bị cáo Hoàng Ngọc H1 , về xử lý vật chứng, án phí, thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 29/01/2021, bị cáo Phạm Đức H kháng cáo với nội dung xin giảm hình phạt.
Ngày 20/01/2021, bị cáo Trần Văn G kháng cáo với nội dung xin giảm hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Các bị cáo Phạm Đức H và Trần Văn G đều thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra. Các bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng và bản án sơ thẩm đã nêu. Các bị cáo chỉ xin giảm nhẹ hình phạt tù mà không có ý kiến gì khác.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Sau khi kiểm tra tính có căn cứ pháp luật của bản án sơ thẩm và sau khi phân tích tính chất - mức độ, hành vi phạm tội, các tình tiết tặng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, đại diện Viện kiểm sát cấp phúc thẩm đã đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt tù, vì bị cáo H đã nộp đầy đủ số tiền thu lợi bất chính (411.000.000 đồng); còn bị cáo G thì mới nộp được một phần (là 50.000.000 đồng), đây được coi là tình tiết mới để khoan hồng giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt, để khuyến khích các bị cáo khác nhằm thu hồi cho Nhà nước một khoản tiền.
Người bào chữa cho các bị cáo: Các luật sư cho rằng sau khi vụ án bị phát hiện thì các bị cáo đã rất thành khẩn khai báo và đã khai ra cả hành vi trước đó, nên phải coi là tự thú để từ đó mà có chính sách khoan hồng giảm nhẹ cho bị cáo. Hơn nữa, bị cáo H đã nộp lại đầy đủ số tiền truy thu như quyết định của bản án sơ thẩm; còn bị cáo G thi do gia đình rất khó khăn nên mới chỉ nộp được 50.000.000 đồng.
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng và tranh luận công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm nhận định:
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ninh và Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh và Kiểm sát viên cũng như Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư ký Tòa án trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có có ý kiến thắc mắc hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều là hợp lệ, đúng pháp luật.
[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo:
Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm thấy trong quá trình điều tra vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm hôm nay, các bị cáo H và G đều thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản án sơ thẩm đã quy kết. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ căn cứ pháp luật để khẳng định: Trong khoảng thời gian từ ngày 31/12/2019 đến ngày 7/8/2020, Phạm Đức H, Trần Văn G đã có hành vi tổ chức cho nhiều người bán dâm tại quán Cafe 669 (thuộc tổ 10, khu 9B, phường Bãi C, thành phố Hạ L, tỉnh Quảng Ninh) và môi giới cho những người này đi bán dâm tại các địa điểm khác theo yêu cầu của khách mua dâm. Tổng số tiền mà H, G và H1 đã thu lợi từ việc chứa mại dâm là rất lớn (589.690.000 đồng) và thu lợi từ việc môi giới mại dâm là 289.300.000 đồng.
Hành vi phạm tội của các bị cáo H và G là rất nguy hiểm cho xã hội, bởi hành vi của các bị cáo là trái với đạo đức, văn hóa, thuần phong mỹ tục truyền thống của dân tộc; là một trong những nguyên nhân dễ làm phát sinh các tệ nạn xã hội và làm lây truyền nhiều bệnh xã hội và các loại tội phạm khác. Do đó, cần phải có mức hình phạt tương xứng, phù hợp với tính chất - mức độ do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra như bản án sơ thẩm đã xét xử đối với các bị cáo là cần thiết. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy: Sau khi vụ án bị phát hiện thì các bị cáo đã rất thành khẩn khai báo và đã khai ra hành vi trước đó của các bị cáo, nên phải coi đây là tự thú; Hơn nữa, sau khi xét xử sơ thẩm thì bị cáo H đã tự nguyện nộp đầy đủ số tiền bản án sơ thẩm tuyên truy thu đối với bị cáo (411.000.000 đồng) và bị cáo G đã nộp tiền truy thu được 50.000.000 đồng, nên được coi là những tình tiết mới để khoan hồng - giảm nhẹ và áp dụng thêm Điều 54 Bộ luật hình sự cho các bị cáo.
Ngoài ra, bị cáo H có bố là thương binh và được tặng kỷ niệm chương và bản thân bị cáo đã giúp cơ quan Công an phát hiện tội phạm, nên cũng cần xem xét thêm cho bị cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.
Chấp nhận nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ mức hình phạt tù của các bị cáo Phạm Đức H và Trần Văn G, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2021/HSST ngày 19/01/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh về phần hình phạt tù của các bị cáo, cụ thể.
[1] Tuyên bố các bị cáo Phạm Đức H, Trần Văn G đều phạm tội “Chứa mại dâm” và tội “Môi giới mại dâm”.
[2] Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 327; các điểm c, d, đ, e khoản 2 Điều 328; các điểm s, t, r khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 55; Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Phạm Đức H 10 (mười) năm tù về tội “Chứa mại dâm”; 09 (chín) tháng tù về tội “Môi giới mại dâm”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Phạm Đức H phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 10 (mười) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 07/8/2020.
- Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 327; các điểm c, d, đ, e khoản 2 Điều 328; các điểm s, r khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 55; Điều 58 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Trần Văn G 14 (mười bốn) năm 06 (sáu) tù về tội “Chứa mại dâm” và 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Môi giới mại dâm”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Trần Văn G phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 17 (mười bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 07/8/2020.
2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
3. Các bị cáo Phạm Đức H, Trần Văn G không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội chứa mại dâm và môi giới mại dâm số 102/2022/HSPT
Số hiệu: | 102/2022/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/02/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về