TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PLEIKU, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 86/2021/HSST NGÀY 10/08/2021 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM
Trong ngày 10 tháng 8 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 66/2021/TLST-HS ngày 06 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 80/2021/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:
TRẦN PHÙNG VI N, sinh năm 1993 tại Gia Lai; nơi ĐKHKTT: Tổ 5, phường Y, thành phố P, tỉnh G; chỗ ở trước khi bị bắt: Số 05 T, phường P, TP. P, tỉnh G; nghề nghiệp: Lễ tân; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần C, sinh năm 1956 và bà: Phùng N, sinh năm 1958; hiện cha mẹ bị cáo trú tại: Tổ 5, phường Y, thành phố P, tỉnh G; bị cáo có 02 anh ruột, sinh năm 1985 và 1988; bị cáo có vợ là Tô Lê Thùy L, sinh năm 1993 và 01 con sinh năm 2018. Hiện vợ và con của bị cáo trú tại: Số 05 T, phường P, TP. P, tỉnh G.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo TRẦN PHÙNG VI N bị tạm giữ từ ngày 09-01-2021, sau đó bị tạm giam cho đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Gia Lai. Có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
- Chị Phan Thị Minh D, sinh năm 1981; địa chỉ: 88 T, Tổ 9, phường P, thành phố P, tỉnh G. Vắng mặt.
- Anh Kiều Quốc T, sinh năm 1983 và chị Trần Thị H, sinh năm 1981; địa chỉ: 2/25/6 P, Tổ 3, phường T, thành phố P, tỉnh G. Vắng mặt.
- Anh Nguyễn Đình T, sinh năm 1979; địa chỉ: 90 N, phường P, thành phố P, tỉnh G. Vắng mặt.
- Anh Phan Phùng B, sinh năm 1973; địa chỉ: Thôn 5, xã T, thành phố P, tỉnh G. Vắng mặt.
- Chị Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1994; địa chỉ: Làng C, xã A, thành phố P, tỉnh G. Vắng mặt.
- Chị Phạm Thị L, sinh năm 2002; địa chỉ: 02/23 P, phường T, thành phố P, tỉnh G. Vắng mặt.
Người chứng kiến:
- Ông Lê Thế Đ, sinh năm 1976; địa chỉ: 88 T, Tổ 9, phường P, thành phố P, tỉnh G. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
TRẦN PHÙNG VI N được bà Phạm Thị Minh D (sinh năm 1981) thuê làm quản lý và lễ tân nhà nghỉ Thùy Dương ở số 88 đường T, thành phố P, tỉnh G. Trong quá trình làm quản lý và lễ tân tại nhà nghỉ Thuỳ Dương do thấy khách đến thuê phòng hỏi gái bán dâm nên N đã nảy sinh ý định khi có khách hỏi mua dâm thì N sẽ gọi gái bán dâm đến nhà nghỉ Thùy Dương mua bán dâm để hưởng tiền hoa hồng. Cũng thời gian này, Phạm Thị Lực (sinh ngày 10/7/2002) và Nguyễn Ngọc Trâm (Sinh năm 1994) là gái bán dâm đến nhà nghỉ Thùy Dương đặt vấn đề với N là khi khách có nhu cầu mua dâm thì N gọi cho Lực và Trâm, sau mỗi lần bán dâm xong thì Trâm và Lực cho N số tiền từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng, N đồng ý và lưu lại số điện thoại của Trâm và Lực.
Vào khoảng 21 giờ ngày 08-01-2021, sau khi nhậu xong, Nguyễn Đình Tình (Sinh năm 1979, trú tại: Tổ 10, phường Phù Đổng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai) rủ Phan Phụng Bình (Sinh năm 1973, trú tại: Thôn 5, xã Trà Đa, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai) đi mua dâm thì Bình đồng ý. Sau đó, Bình và Tình bắt xe taxi (hiện chưa xác định được biển số, hãng xe) đến nhà nghỉ Thùy Dương tại số 88 đường Trường Chinh, Tổ 9, phường Phù Đổng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai, để tìm gái bán dâm. Tại đây, Bình đứng ra thỏa thuận, đặt vấn đề với TRẦN PHÙNG VI N về việc thuê phòng nghỉ và mua dâm, N đồng ý và báo giá là 500.000 đồng/01 người. Thống nhất xong, N đưa cho B chìa khóa phòng 202, T chìa khóa phòng 305 rồi N điện thoại gọi cho Phạm Thị L và Nguyễn Ngọc T đến nhà nghỉ Thùy Dương để bán dâm cho khách, Trâm và Lực đồng ý. Khi T và L đến nhà nghỉ gặp N, N nói Trâm lên phòng 202, còn L lên phòng 305 để bán dâm. Khi T và L lên phòng cởi đồ ra chuẩn bị bán dâm cho B và T thì bị lực lượng Công an thành phố Pleiku phát hiện bắt quả tang. Thu giữ 01 bao cao su nhãn hiệu SURE (chưa qua sử dụng) trên giường phòng 305; 01 bao cao su nhãn hiệu PRETEX (chưa qua sử dụng) trên bàn cạnh giường phòng 202. Thu giữ của TRẦN PHÙNG VI N gồm: 01 chứng minh N dân mang tên TRẦN PHÙNG VI N; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar, màu trắng - xanh kèm sim số và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7, màu đen kèm sim số 0944441090. Thu giữ của Nguyễn Ngọc T gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7, màu đen kèm sim số và 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Airblade, biển số 81B1-160.79. Thu giữ của Phạm Thị L gồn: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus, màu gold kèm sim số; 01 điện thoại di động Iphone Xsmas, màu gold kèm sim số và 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Nouvo, biển số 81B1-361.26 Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận nêu trên.
3. Cáo trạng của Viện kiểm sát:
Bản cáo trạng số: 73/CT-VKS ngày 05-5-2021 của Viện kiểm sát N dân thành phố P, tỉnh G đã truy tố bị cáo TRẦN PHÙNG VI N về tội “Chưa mại dâm” được quy định tại khoản 1 Điều 327 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo TRẦN PHÙNG VI N và đề nghị Hội đồng xét xử:
Về hình sự:
Tuyên bố bị cáo TRẦN PHÙNG VI N phạm tội: “Chứa mại dâm”.
Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt bị cáo TRẦN PHÙNG VI N với mức án từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù đến 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 09-01-2021.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và căn cứ khoản 2 và khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Trả cho TRẦN PHÙNG VI N 01 chứng minh N dân mang tên TRẦN PHÙNG VI N và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7, màu đen kèm sim số là của cá N bị cáo;
Tịch thu, sung quỹ Nhà nước chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar, màu trắng -xanh kèm sim số là của bị cáo N, N đã sử dụng làm phương tiện thực hành vi phạm tội.
Tịch thu, tiêu hủy đối với 01 bao cao su nhãn hiệu SURE (chưa qua sử dụng) và 01 bao cao su nhãn hiệu PRETEX (chưa qua sử dụng).
Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.
Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án: Bị cáo nhận thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo rất hối hận vì việc làm của mình, kính mong Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P, tỉnh G; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc có khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi bị truy tố của bị cáo:
Xét thấy lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ căn cứ để kết luận bị cáo TRẦN PHÙNG VI N phạm tội như sau:
TRẦN PHÙNG VI N là quản lý và lễ tân nhà nghỉ Thùy Dương tại số 88 đường T, tổ 9, phường P, thành phố P, tỉnh G. Trong quá trình quản lý và làm lễ tân nhà nghỉ, N thấy có nhiều khách thuê phòng hỏi mua dâm nên đã nảy sinh ý định cho những người mua, bán dâm tại nhà nghỉ Thùy Dương nơi mình quản lý để được ăn chia tiền hoa hồng. Vào khoảng 21 giờ ngày 08-01-2021, Phan Phụng B đến gặp N và đứng ra thuê phòng để mua dâm, thì N đã để cho B và T mua, bán dâm với Phạm Thị L và Nguyễn Ngọc T tại nhà nghỉ Thùy Dương. Đến 21 giờ 45 phút cùng ngày, thì bị lực lượng Công an thành phố Pl phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.
Tại Điều 327 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định:
“1. Người nào chứa mại dâm, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Mại dâm là tệ nạn xã hội trái với đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, giống nòi, đời sống vật chất và văn hóa của dân tộc, làm mất trật tự an toàn xã hội và gây ra nhiều tác hại về mọi mặt trong đời sống, xã hội. Mặt khác, mại dâm cũng là nguyên N dẫn đến những tệ nạn xã hội và tội phạm khác như tội lây truyền HIV cho người khác, tội buôn bán người… Bị cáo TRẦN PHÙNG VI N là người đã trưởng thành, có trình độ học vấn, bị cáo biết rõ việc chứa mại dâm là vi phạm pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vì mục đích tư lợi cá N, khi có anh Phan Phụng B đến mua dâm bị cáo đã gọi Phạm Thị L và Nguyễn Ngọc T là những người bán dâm đến nhà nghỉ Thùy Dương mà bị cáo đang quản lý để thực hiện hành bán dâm. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm đã xâm phạm trật tự công cộng, góp phần cho những tệ nạn xã hội khác. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội: “Chứa mại dâm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 327 Bộ luật hình sự, đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai đã truy tố là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần xử phạt bị cáo một mức án tù có thời hạn tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nhằm giáo dục bị cáo cải tạo bảnhân thânđể tiến bộ là cần thiết.
[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ là trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải; bị cáo có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Vì vậy, Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi quyết định hình phạt.
[4] Về vật chứng vụ án:
- Đối với 01 (một) chứng minh N dân mang tên TRẦN PHÙNG VI N. Xét đây là giấy tờ của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội. Do đó, cần trả lại cho bị cáo - Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7, màu đen kèm sim số.
(điện thoại cũ, đã qua sử dụng, Chi cục thi hành án dân sự Tp. Pleiku không kiểm tra tình trạng bên trong). Xét đây là tài sản của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội, cần trả lại cho bị cáo.
- Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar, màu trắng – xanh cùng sim số. (điện thoại cũ, đã qua sử dụng Chi cục THADS Tp.Pleiku không kiểm tra tình trạng bên trong). Xét đây là tài sản của bị cáo, bị cáo đã sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.
- Đối với 01 (một) bao cao su nhãn hiệu SURE và 01 (môt) bao cao su nhãn hiệu PRETEX (chưa qua sử dụng). Xét đây là tang vật của vụ án, không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với tài sản thu giữ của Nguyễn Ngọc T, qua điều tra xác định: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7, màu đen kèm sim số là tài sản cá nhân của T; chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Airblade, biển số 81B1-160.79 là tài sản của ông Kiều Quốc T (sinh năm 1983, trú tại Tổ 3, phường T, TP. P), việc T mượn chiếc xe mô tô biển số 81B1-160.79 để làm phương tiện đi bán dâm thì ông T không biết. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P đã trả lại chiếc điện thoại cho T và chiếc xe mô tô biển số 81B1-160.79 cho ông T là phù hợp.
Đối với tài sản đã thu giữ của Phạm Thị L, qua điều tra xác định: chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus, màu gold kèm sim số và chiếc điện thoại di động Iphone Xsmas, màu gold kèm sim số là tài sản cá N của Lực; chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Nouvo, biển số 81B1-361.26 là tài sản của bà Trần Thị Hoài (sinh năm 1981, trú tại Tổ 3, phường T, TP. P, G), việc L mượn chiếc xe mô tô biển số 81B1-361.26 để đi bán dâm thì bà H không biết. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku đã trả lại điện thoại cho L và chiếc xe mô tô biển số 81B1-361.26 cho bà H là phù hợp.
[5]. Hình phạt bổ sung: Bị cáo chưa có thu lợi nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo [6] Về các vấn đề khác:
Đối với việc TRẦN PHÙNG VI N để cho 02 cặp mua bán dâm tại nhà nghỉ Thùy Dương, quá trình điều tra xác định được, khi Phan Phụng B và Nguyễn Đình T đến mua dâm thì chỉ B là người đứng ra đặt vấn đề với N về việc mua dâm tại nhà nghỉ, cả B và T mua dâm với Phạm Thị L, Nguyễn Ngọc T là cùng một thời điểm. Do đó, không xử lý đối với N về hành vi: “Phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 327 Bộ luật Hình sự.
Đối với Phạm Thị L và Nguyễn Ngọc T có hành vi bán dâm trái pháp luật. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Pl đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại khoản 1 Điều 23 Nghị định số 167/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ.
Đối với Phan Phụng B và Nguyễn Đình T là những người mua dâm. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại khoản 1 Điều 22 Nghị định số 167/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ.
Đối với bà Phạm Thị Minh D là chủ nhà nghỉ Thùy Dương, quá trình điều tra bà Dung không thừa nhận việc bà D biết và đồng ý cho N sử dụng nhà nghỉ Thùy Dương để chứa mại dâm. Ngoài lời khai của N thì không có chứng cứ khác để chứng minh, Cơ quan điều tra đã tiến hành đối chất nhưng không giải quyết được mâu thuẫn này nên không có căn cứ xử lý hình sự đối với bà D.
[7] Về án phí: Bị cáo TRẦN PHÙNG VI N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 327; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo TRẦN PHÙNG VI N.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo TRẦN PHÙNG VI N phạm tội: “Chứa mại dâm”.
2. Về hình phạt:
Xử phạt bị cáo TRẦN PHÙNG VI N 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ ngày 09-01-2021.
3. Về xử lý vật chứng:
Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và căn cứ khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Xử:
- Trả lại cho bị cáo TRẦN PHÙNG VI N 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên TRẦN PHÙNG VI N và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7, màu đen kèm sim số. (điện thoại cũ, đã qua sử dụng, Chi cục thi hành án dân sự Tp. Pleiku không kiểm tra tình trạng bên trong).
- Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Mobiistar, màu trắng – xanh cùng sim số. (điện thoại cũ, đã qua sử dụng Chi cục THADS Tp.Pleiku không kiểm tra tình trạng bên trong).
- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bao cao su nhãn hiệu SURE và 01 (một) bao cao su nhãn hiệu PRETEX (chưa qua sử dụng).
(Tất cả theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 02-6-2021 giữa Công an thành phố Pleiku và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Pleiku,tỉnh Gia Lai).
4. Về án phí:
Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Buộc bị cáo TRẦN PHÙNG VI N phải chịu 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo:
Căn cứ vào các Điều 331 và 333 của Bộ luật tố Tụng hình sự năm 2015; Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu Toà án N dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”
Bản án về tội chứa mại dâm số 86/2021/HSST
Số hiệu: | 86/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/08/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về