Bản án về tội chứa mại dâm số 31/2023/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 31/2023/HS-PT NGÀY 12/05/2023 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 12 tháng 5 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm Tòa án nhân dân tỉnh B và điểm cầu thành phần Toà án nhân dân huyện Hớn Quản xét xử trực tuyến phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 23/2023/HSPT ngày 13 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo Lê Thị H.

Do có kháng cáo của bị cáo Lê Thị H đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 82/2023/HS-ST ngày 23/12/2022 của Tòa án nhân dân huyện Hớn Quản, tỉnh B.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Lê Thị H, sinh năm 1964 tại Bình Dương; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp H, xã H1, huyện T, tỉnh Bình Dương; chỗ ở: Tổ 9, ấp S, xã H2, huyện Q, tỉnh B; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt N; con ông Võ Văn Đ (đã chết) và bà Lê Thị Th; bị cáo có 01 con sinh năm 1985; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 07/9/2001, bị Tòa án nhân dân tỉnh B xử phạt 03 năm tù cho hưởng án treo thời gian thử thách 05 năm về tội “Chứa mại dâm”; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/7/2022 cho đến ngày 26/10/2022 được tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

Ngoài ra, trong vụ án còn có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng những người này không kháng cáo, không bị Viện kiểm sát kháng nghị nên không được Tòa án triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Thị H sinh sống và kinh doanh quán cà phê giải khát (không có biển hiệu) tại tổ 9, ấp S, xã H2, huyện Q, tỉnh B từ năm 2006 cho đến nay. Khoảng tháng 4/2022, H thỏa thuận Phạm Thị H3 và Trương Thị Diễm Tr, để H3 và Tr hoạt động mua bán dâm cho khách ngay tại quán khi khách có nhu cầu với giá 300.000 đồng/1 lượt bán dâm. H thỏa thuận mỗi lần H3 và Tr bán dâm thì H thu số tiền 50.000 đồng tiền phòng và thu tiền nước uống của khách từ 15.000 đến 20.000 đồng/1 chai; số tiền còn lại là của H3 và Tr. Để thuận tiện cho việc thực hiện hành vi mua bán dâm, H3 được ở phòng thứ nhất (tính từ ngoài vào), Tr được ở phòng thứ 3 của quán nước. Quá trình thực hiện việc mua bán dâm, H3 và Tr thực hiện ngay trong phòng ở của H3 và Tr.

Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 27/7/2022, khi H đang ở quán thì Lê Văn T cùng Nguyễn Văn N đi đến quán nước của H để uống nước và mua dâm. Tại đây Hạnh mang 02 chai nước “Number one” ra mời T và N uống, Tr cũng đi ra chỗ T và N ngồi. H3 và Tr cùng ngồi thỏa thuận giá tiền mua bán dâm với T và N với số tiền 300.000 đồng/1 lần, trong đó bao gồm cả tiền 02 chai nước T và N đang uống thì T và N đồng ý. Thỏa thuận việc mua bán dâm xong, H3 đưa T vào phòng của H3; còn Tr đưa N vào trong phòng của Tr để thực hiện hành vi mua bán dâm. Khi H3 đang quan hệ tình dục với T; Tr đang quan hệ tình dục với N thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện.

Ngoài ra, ngày 13/7/2022 H3 đã bán dâm cho Nguyễn Văn N 01 lần tại quán nước với số tiền 315.000 đồng, sau đó H3 đưa cho H số tiền 50.000 đồng tiền thuê phòng và 15.000 đồng tiền nước uống.

Tại Cơ quan điều tra Lê Thị H, Phạm Thị H3, Trương Thị Diễm Tr đã khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung đã nêu trên.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 82/2022/HS-ST ngày 23/12/2022 của Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh B đã tuyên xử:

Tuyên bố bị cáo Lê Thị H phạm tội “Chứa mại dâm”.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 327; Điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 54 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lê Thị H 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án phạt tù được trừ đi thời hạn tạm giữ, tam giam từ ngày 27/7/2022 đến ngày 26/10/2022.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 17/01/2023 bị cáo Lê Thị H có đơn kháng cáo yêu cầu xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Bản án sơ thẩm xác định và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên tại phiên tòa: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo yêu cầu xin được hưởng án treo của bị cáo Lê Thị H, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 82/2022/HS-ST ngày 23/12/2022 của Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh B.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Đơn kháng cáo của bị cáo Lê Thị H được thực hiện trong thời hạn luật định, có hình thức và nội dung phù hợp với quy định tại các Điều 331, 332 và 333 Bộ luật tố tụng hình sự nên đủ điều kiện giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2]. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như Bản án sơ thẩm đã nhận định. Hội đồng xét xử phúc thẩm xác định Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo Lê Thị H phạm tội “Chứa mại dâm” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 327 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Xét kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Lê Thị H, Hội đồng xét xử nhận định: Bị cáo có nhân thân xấu, bị cáo đã từng bị xử phạt tù song được hưởng án treo cũng về tội “Chứa mại dâm” nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân, mặc dù biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng để thu lợi bất chính, bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Hành vi của bị cáo thể hiện sự coi thường pháp luật cần được nghiêm trị bằng một mức án tương xứng với hành vi mà bị cáo đã gây ra. Tại Toà án cấp sơ thẩm bị cáo đã được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ như: Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tích cực hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án; bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, là lao động chính trong gia đình, bị nhiều bệnh, một mình nuôi con nhỏ, đã nộp lại số tiền thu lợi bất chính được quy định tại điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, do đó Toà án cấp sơ thẩm đã áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, xử phạt bị cáo 03 năm tù là phù hợp, không nặng so với hành vi và hậu quả mà bị cáo đã gây ra. Tại Toà án cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp được thêm tình tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo. Cần giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo.

[4]. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B tại phiên tòa là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5]. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

[6]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Không chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Lê Thị H;

Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 82/2022/HS-ST ngày 23/12/2022 của Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh B về phần hình phạt đối với bị cáo.

Tuyên bố bị cáo Lê Thị H phạm tội “Chứa mại dâm”.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 327; Điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 54 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lê Thị H 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án được trừ đi thời hạn tạm giữ, tam giam từ ngày 27/7/2022 đến ngày 26/10/2022.

Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Lê Thị H phải chịu 200.000 đồng.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội chứa mại dâm số 31/2023/HS-PT

Số hiệu:31/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:12/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về