Bản án về tội chứa mại dâm số 25/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TRÀ VINH, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 25/2023/HS-ST NGÀY 26/06/2023 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 26 tháng 6 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Trà Vinh xét xử sơ thẩm rút kinh nghệm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 28/2023/TLST-HS ngày 29 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2023/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:

Thạch Thị Tuyết M, sinh ngày 23/9/1986. Nơi cư trú: Số 382, khóm A, phường B, thành phố TV, tỉnh TV (nơi tạm trú trước khi bắt tạm giam: khóm C, phường D, thành phố TV, tỉnh TV); nghề nghiệp: Kinh doanh quán cà phê; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Khmer; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nữ; con ông Thạch S, sinh năm 1958 và bà Lâm Thị H, sinh năm 1958; bị cáo có chồng tên: Châu Bửu H, sinh năm 1979 (đã ly hôn năm 2012); con có 01 người sinh năm 2010; tiền án; không; tiền sự: Không; (bị cáo bị tạm giữ ngày 10/02/2023 sau đó chuyển tạm giam cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa).

Người làm chứng:

- Bà Trần Thị Mộng C, sinh ngày 05/7/2002 (vắng mặt).

Nơi cư trú: ấp O, xã TS, huyện TC, tỉnh TV.

- Bà Trần Thị Hồng L, sinh ngày 07/9/1993 (có đơn xin vắng mặt). Nơi cư trú: Ấp C, xã PH, huyện TC, tỉnh TV.

- Ông Nguyễn Minh N, sinh ngày 09/01/1988 (có đơn xin vắng mặt) Nơi cư trú: Ấp 1, xã HT, huyện TC, tỉnh TV.

- Ông Ngô Thanh B, sinh ngày 28/12/1982 (có đơn xin vắng mặt). Nơi cư trú: Ấp 2, xã PP, huyện CK, tỉnh TV.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào sáng ngày 04/01/2023, bị cáo Thạch Thị Tuyết M, sinh ngày 23/9/1986 là chủ quán cà phê “BN” toạ lạc tại khóm A, phường B, thành phố TV, tỉnh TV nói với hai nhân viên của quán là Trần Thị Mộng C và Trần Thị Hồng rằng “mẹ chị bệnh quá, hai em giúp chị đi khách một lần” (tức là bán dâm) thì được cả hai đồng ý. Đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày thì có Nguyễn Minh N và Ngô Thanh B đến quán uống nước thì bị cáo M đi ra tiếp chuyện và hỏi: “Hai anh có nhu cầu đấm bóp, giác hơi hay bấm huyệt gì không?” thì Ngô Thanh B hỏi: “Quán của em có đi khách không, nếu đi thì giá bao nhiêu?”, lúc này bị cáo M hiểu ý của câu hỏi tức là quán của M có bán dâm không thì Mai trả lời: “Anh đi bên ngoài bao nhiêu thì cho em út bấy nhiêu”. Lúc này, Trần Thị Hồng L ngồi gần đó nói: “Nếu đi khách thì 500.000 đồng/lượt/người” thì được B và N đồng ý. Đồng thời, Ngô Thanh B chỉ tay về phía L nói: “Anh đi với bé đó được không?” thì M đồng ý và trả lời: “Được”. Sau đó, M kêu L: “Dẫn khách vô đi em”, lúc này B đưa cho Msố tiền 1.200.000 đồng, trong đó 1.000.000 đồng là tiền mua dâm của hai người trả cho L và C, 200.000 đồng là tiền B cho riêng M. Đồng thời, Trần Thị Mộng C ngồi gần đó cũng đứng dậy đi cùng Nguyễn Minh N vào căn phòng thứ nhất của quán, còn B và L vào căn phòng thứ hai.

Đối với số tiền 500.000 đồng của L bán dâm thì L sẽ nhận được 430.000 đồng, còn M hưởng lợi 70.000 đồng gồm: 20.000 đồng tiền nước và 50.000 đồng tiền phòng, đối với C thì bị cáo M cũng hưởng lợi tương tự như trên, tổng số tiền mà M hưởng lợi từ việc bán dâm của Trần Thị Hồng L và Trần Thị Mộng C là 140.000 đồng.

Trong lúc cả hai đôi nam nữ trên đang thực hiện hành vi quan hệ tình dục thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện và mời về cơ quan Công an làm việc.

- Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án:

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Không.

- Những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án:

Đối với bà Trần Thị Mộng C, bà Trần Thị Hồng L, ông Nguyễn Minh Nvà ông Ngô Thanh B đã có hành vi mua bán dâm nên ngày 13/01/2023 Công an thành phố Trà Vinh đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi mua bán dâm với tổng số tiền là:

3.800.000 đồng nên Hội đồng xét xử không xem xét, xử lý.

Đối với bà Trần Thị M, là người cho bị cáo Thạch Thị Tuyết M thuê căn nhà để mở quán cà phê BN hoàn toàn không biết việc Mai sử dụng quán cà phê BN để thực hiện hành vi phạm tội nên không xem xét, xử lý.

- Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng: Hiện Cơ quan điều tra Công an thành phố Trà Vinh đang tạm giữ: 05 cái bao cao su, chưa qua sử dụng (trong đó: 02 cái bao cao su hiệu OK và 03 cái bao cao su hiệu FREMEN); 04 vỏ bao cao su hiệu FREMEN, đã bị rách một góc; 04 cái bao cao su đã qua sử dụng; Tiền Việt Nam: 1.200.000 đồng (một triệu hai trăm nghìn đồng).

- Phần dân sự: không.

Tại bản cáo trạng số: 27/CT-VKS-HS ngày 26/5/2023 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh đã truy tố Thạch Thị Tuyết M về tội “Chứa mại dâm” theo khoản 1 điều 327 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo Thạch Thị Tuyết M phạm tội “Chứa mại dâm” như bản cáo trạng đã nêu. Sau khi phân tích, đánh giá các tình tiết, chứng cứ của vụ án và nhân thân của bị cáo. Vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ: Khoản 1 điều 327; điểm s khoản 1 điều 51; điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Thạch Thị Tuyết M từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù. Đồng thời, đề nghị xử lý tang vật chứng và buộc bị cáo nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án, bị cáo ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Trà Vinh, Điều tra viên. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Thạch Thị Tuyết M đã khai nhận: Bị cáo thuê mặt bằng mở quán bán café từ năm 2021 tại khóm A, phường B, thành phố TV, tỉnh TV. Vào cuối tháng 12 năm 2022 bị cáo thuê hai nhân viên nữ là Trần Thị Mộng C và Trần Thị Hồng L đến phục vụ quán với mục đích kích dục và bán dâm cho khách nhằm thu lợi bất chính. Vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 04/01/2023 bị cáo cho hai nhân viên là Trần Thị Mộng C và Trần Thị Hồng L bán dâm cho Nguyễn Minh N và Ngô Thanh B tại quán với giá 500.000đ/lượt/người, trong lúc đang thực hiện hành vi mua bán dâm thì bị Công an kiểm tra bắt quả tang.

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của các đối tượng mua, bán dâm và tang vật chứng đã thu giữ. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Thạch Thị Tuyết M đã phạm vào tội “Chứa mại dâm” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 327 Bộ luật hình sự. Như Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng không bổ sung tài liệu, đồ vật và không đề nghị triệu tập thêm người tham gia tố tụng. Xác định tư cách người tham gia tố tụng theo quyết định đưa vụ án ra xét xử là đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Xét thấy bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh truy tố bị cáo Thạch Thị Tuyết M về tội “Chứa mại dâm” theo khoản 1 điều 327 Bộ luật hình sự là phù hợp với quy định của pháp luật, không oan, không sai.

[4] Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, bị cáo mở quán café với hình thức trá hình, cho nhân viên phục vụ khách dưới hình thức kích dục và bán dâm cho khách khi có yêu cầu nhằm mục đích thu lợi bất chính, hành vi của bị cáo không chỉ xâm phạm đến an ninh trật tự địa phương mà còn xâm phạm nghiêm trọng đến pháp luật hình sự, xâm phạm đến đạo đức, thuần phong, mỹ tục, đời sống văn hóa của dân tộc, gây bức xúc trong dư luận quần chúng nhân dân. Do đó, cần xử lý nghiêm đối với bị cáo để nhằm răn đe phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, khi phạm tội bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; đã thật thà khai báo, ăn năn hối cải. Nghĩ nên xem đây là những tình tiết giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở.

Đối với người làm chứng: Bà Trần Thị Mộng C, bà Trần Thị Hồng L, ông Nguyễn Minh N, ông Ngô Thanh B. Mặc dù đã bị xử phạt hành chính, nhưng trước tòa hôm nay cũng cần phê phán nghiêm khắc về hành vi vi phạm của các đương sự này, để nhằm răn đe phòng ngừa chung.

[5] Về vật chứng: Tiền Việt Nam 1.200.000đ (Một triệu hai trăm ngàn đồng); 05 cái bao cao su, trong đó (02 cái hiệu OK, 03 cái hiệu FREMEN) chưa qua sử dụng; 04 cái bao cao su đã qua sử dụng; 04 cái vỏ bao cao su hiệu FREMEN đã bị rách một góc. Nghĩ nên tịch thu sung quỷ nhà nước và tiêu hủy theo quy định của pháp luật.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẻ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Thạch Thị Tuyết M phạm tội “Chứa mại dâm”.

Căn cứ: Khoản 1 điều 327; điểm s khoản 1 điều 51; điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Thạch Thị Tuyết M 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 10/02/2023.

Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 1.200.000đ. Tịch thu tiêu hủy: 05 cái bao cao su, trong đó (02 cái hiệu OK, 03 cái hiệu FREMEN) chưa qua sử dụng; 04 cái bao cao su đã qua sử dụng; 04 cái vỏ bao cao su hiệu FREMEN đã bị rách một góc.

Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Thạch Thị Tuyết M phải có nghĩa vụ nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Án sơ thẩm xử công khai, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

108
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội chứa mại dâm số 25/2023/HS-ST

Số hiệu:25/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Trà Vinh - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về