Bản án về tội chứa mại dâm số 164/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 164/2021/HSST NGÀY 04/11/2021 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 04 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:172/2021/TLST-HS ngày 29 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 159/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2021; Thông báo thay đổi thời gian xét xử số 172/2021/TB-TA ngày 20/9/2021 và thông báo thay đổi thời gian xét xử số 176/2021/TB-TA ngày 13/10/2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Hùng S, sinh năm 1984, tại Quảng Bình. Hộ khẩu thường trú: Thôn K, xã K, huyện T, tỉnh Quảng Bình. Nơi cư trú: Ấp 5, xã S, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Giới tính: Nam. Nghề nghiệp: Buôn bán. Trình độ học vấn: 12/12. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Con ông Nguyễn Đăng H, sinh năm 1958 và bà Lương Thị T, sinh năm 1957. Gia đình có 04 chị em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình. Bị cáo sống như vợ chồng với chị Võ Thị H, sinh năm 1983, có 01 con sinh năm 2021.

Nhân thân: Ngày 12/9/2006, bị Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình xử phạt 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 24/01/2007, bị Toà án nhân dân huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình xử phạt 12 (mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt của 02 bản án là 21 (hai mươi mốt) tháng tù. Ngày 24/11/2009, bị Toà án nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 (một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt và các khoản án phí theo quy định.

Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị giam giữ từ ngày 20/4/2021 (có mặt).

NHẬN THẤY

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Hùng S và Võ Thị H có quan hệ tình cảm và chung sống như vợ chồng. Vào cuối năm 2019, H thuê một căn nhà tại ấp 5, xã S, huyện T, tỉnh Đồng Nai để mở quán “Cà phê 79”, H là người làm chủ và trực tiếp trông coi quản lý quán. Đến khoảng tháng 10/2020, do H mang thai đi lại khó khăn nên giao cho S trông coi quản lý quán “Cà phê 79”. Vào đầu năm 2021, H và S tiếp tục thuê đất mở quán cà phê “Thủy Tiên” tại ấp 6, xã S, huyện T, lúc này H trông coi quản lý và sinh sống cùng con nhỏ tại quán cà phê “Thủy Tiên”, còn S trông coi quản lý tại quán “Cà phê 79”. Ngày 13/4/2021, Lê Thị Mỹ L đến quán cà phê “Thủy Tiên” gặp H và S để xin làm nhân viên của quán thì H và S đồng ý nhận L làm việc tại quán “Cà phê 79”. Quá trình làm việc tại quán “Cà phê 79”, L nói với S về việc L muốn được bán dâm cho khách tại quán để kiếm thêm thu nhập thì S đồng ý cho L bán dâm tại quán và thỏa thuận với L massage kích dục với giá là 150.000 đồng, bán dâm với giá là 250.000 đồng, mỗi lần massage kích dục hoặc bán dâm thì L đưa khách vào phòng tại quán, cứ mỗi lần (suất) là 30 phút, sau khi nhận tiền massage kích dục và bán dâm của khách thì đưa lại cho S số tiền 50.000 đồng/1 suất, vì lý do sợ L massage kích dục, bán dâm với giá cao sẽ không có khách đến mua dâm, bị mất khách nên S chỉ cho L bán dâm và kích dục với giá như đã thỏa thuận. Sau đó L đến tiệm thuốc tây cách quán “Cà phê 79” khoảng 100 mét mua 10 bao cao su với giá 20.000 đồng để mục đích bán dâm cho khách. Do thường xuyên ở cùng H tại quán cà phê ”Thủy Tiên” nên S có nói với Võ Thị X (cháu của H) đến quán “Cà phê 79” trông coi, khi L đưa khách vào phòng sau đó ra thì lấy 50.000 đồng. Thông qua X, từ thời gian L đến quán làm việc thì S đã nhận tổng số tiền 600.000 đồng (trong đó có 150.000 đồng tiền bán dâm, 250.000 đồng tiền massage kích dục, 200.000 đồng tiền bán nước ngọt) (X không biết việc S cho L bán dâm tại quán).

Vào lúc 23 giờ 00 phút ngày 19/4/2021, Công an huyện Trảng Bom phối hợp Công an xã S tiến hành kiểm tra hành chính phát hiện L đang thực hiện hành vi bán dâm cho Nguyễn Văn H, sinh năm: 1995, hộ khẩu thường trú: ấp L, xã T, huyện T với giá là 350.000 đồng tại phòng của quán “Cà phê 79”. Tại thời điểm kiểm tra chỉ có X là người trông coi quán , chủ quán là S và H không có mặt tại quán.

Vật chứng thu giữ gồm: 06 bao cao su chưa qua sử dụng trong túi áo khoác của L, 01 bao cao su đã qua sử dụng tại nơi L bán dâm, số tiền 300.000 đồng trong người L, số tiền 50.000 đồng trong người X mà L mới đưa.

Trong quá trình điều tra, Lê Thị Mỹ L thừa nhận đã thực hiện hành vi bán dâm tại quán “Cà phê 79” được 03 lần, đến lần thứ 4 thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện. Nguyễn Hùng S biết rõ và đồng ý để cho L bán dâm cho khách nam tại quán cà phê 79, mỗi lần bán dâm thì S được hưởng 50.000 đồng một lần.

Ngày 23/4/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Hùng S để điều tra theo quy định. Quá trình điều tra bị can Nguyễn Hùng S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.

Tại bản Cáo trạng số 180/CT-VKS-TB ngày 20/7/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom đã truy tố Nguyễn Hùng S về tội “Chứa mại dâm” theo điểm c khoản 2 Điều 327 của Bộ luật hình sự 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 327; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Hùng S mức án từ 05 (năm) năm đến 06 (sáu) năm tù.

- Về xử lý vật chứng:

+ Đối với 06 bao cao su chưa qua sử dụng, 01 bao cao su đã qua sử dụng tại quán “Cà phê 79” sử dụng vào việc mua bán dâm đề nghị Tòa tuyên tịch thu tiêu hủy.

+ Đối với số tiền 300.000 đồng trong người Lê Thị Mỹ L và số tiền 50.000 đồng trong người Võ Thị X là tiền có được từ hoạt động mại dâm tại quán “Cà phê 79”, đề nghị Tòa tuyên tịch thu sung công quỹ.

+ Đối với số tiền 400.000 đồng (trong đó có 150.000 đồng tiền bán dâm, 250.000 đồng tiền massage kích dục), là số tiền thu lợi bất chính từ hoạt động mại dâm, hiện nay S đang bị tạm giam nên chưa có khả năng giao nộp. Đề nghị Tòa tuyên buộc bị cáo có trách nhiệm giao nộp số tiền thu lợi bất chính.

- Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

- Đối với Lê Thị Mỹ L là nhân viên nữ của quán “Cà phê 79” đã có hành vi bán dâm, Công an huyện Trảng Bom ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại khoản 1, Điều 23 Nghị định số 167/2013/NÐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực ANTT, ATXH với mức phạt tiền 200.000 đồng.

- Đối với Nguyễn Văn H ngày 19/4/2021 có hành vi mua dâm Lê Thị Mỹ L tại quán “Cà phê 79”, Công an huyện Trảng Bom ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại khoản 1, Điều 22 Nghị định số 167/2013/NÐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vục ANTT, ATXH với mức phạt tiền là 750.000 đồng.

- Đối với Võ Thị X và Võ Thị H không biết việc Nguyễn Hùng S cho nhân viên bán dâm tại quán “Cà phê 79” và cũng không giúp sức gì trong việc chứa mại dâm của S nên Cơ quan điều tra không xử lý.

- Đối với chủ cho thuê đất quán “Cà phê 79” tại ấp 5, xã Sông Trầu, huyện Trảng Bom, Đồng Nai là gia đình bà Lê Thị Thanh T, sinh năm: 1975; Hộ khẩu thường trú: số 298, tổ 5 ấp 2, xã Sông Trầu, huyện Trảng Bom, Đồng Nai không biết việc Nguyễn Hùng S cho nhân viên bán dâm tại quán “Cà phê 79” và cũng không giúp sức gì trong việc chứa mại dâm của bị cáo S nên Cơ quan điều tra không xử lý.

Bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom và lời nói sau cùng của bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Trảng Bom, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai nhận của bị cáo tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ căn cứ để kết luận: Từ ngày 13/4/2021 đến ngày 19/4/2021 tại quán “Cà phê 79” tại ấp 5, xã Sông Trầu, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn Hùng S đã nhiều lần chứa mại dâm nhằm mục đích thu lợi bất chính với tổng số tiền 400.000 đồng, sau đó bị Lực lượng Công an huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai phát hiện bắt quả tang. Hành vi nêu trên của Nguyễn Hùng S là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến đạo đức, đời sống văn hóa, trật tự trị an xã hội và đã phạm vào tội “Chứa mại dâm” theo điểm c khoản 2 Điều 327 Bộ luật hình sự 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

[3] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[4] Về xử lý vật chứng:

[4.1] Tịch thu tiêu huỷ 06 bao cao su chưa qua sử dụng, 01 bao cao su đã qua sử dụng tại quán “Cà phê 79”.

[4.2] Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 300.000 đồng trong người Lê Thị Mỹ L và số tiền 50.000 đồng trong người Võ Thị X là tiền có được từ hoạt động mại dâm tại quán “Cà phê 79”.

[4.3] Buộc bị cáo Nguyễn Hùng S phải nộp số tiền thu lợi bất chính là 400.000 đồng (trong đó có 150.000 đồng tiền bán dâm, 250.000 đồng tiền massage kích dục).

[5] Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Đối với Lê Thị Mỹ L là nhân viên nữ của quán “Cà phê 79” đã có hành vi bán dâm, Công an huyện Trảng Bom ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại khoản 1, Điều 23 Nghị định số 167/2013/NÐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực ANTT, ATXH với mức phạt tiền 200.000 đồng.

[6.1] Đối với Nguyễn Văn H ngày 19/4/2021 có hành vi mua dâm Lê Thị Mỹ L tại quán “Cà phê 79”, Công an huyện Trảng Bom ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính the0 quy dịnh tại khoản 1, Điều 22 Nghị định số 167/2013/NÐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vục an ninh trật tự, an toàn xã hội với mức phạt tiền mỗi là 750.000 đồng nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6.2] Đối với Võ Thị X và Võ Thị H không biết việc Nguyễn Hùng S cho nhân viên bán dâm tại quán “Cà phê 79” và cũng không giúp sức gì trong việc Chứa mại dâm của S nên Cơ quan điều tra không xử lý nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6.3] Đối với chủ cho thuê đất quán “Cà phê 79” tại ấp 5, xã S, huyện T, Đồng Nai là gia đình bà Lê Thị Thanh T, sinh năm: 1975; Hộ khẩu thường trú: số 298, tổ 5, ấp 2, xã S, huyện T, Đồng Nai không biết việc Nguyễn Hùng S cho nhân viên bán dâm tại quán “Cà phê 79” và cũng không giúp sức gì trong việc chứa mại dâm của bị cáo S nên Cơ quan điều tra không xử lý nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ theo điểm c khoản 2 Điều 327; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017):

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hùng S phạm tội “Chứa mại dâm”.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Hùng S 05 (năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 20/4/2021.

2. Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

- Tịch thu tiêu hủy 06 bao cao su chưa qua sử dụng, 01 bao cao su đã qua sử dụng.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 350.000 đồng (ba trăm năm mươi nghìn đồng).

- Buộc bị cáo Nguyễn Hùng S phải nộp lại số tiền thu lợi bất chính 400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng).

(Toàn bộ số vật chứng nêu trên được bàn giao theo ủy nhiệm chi ngày 04/8/2021 và biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 23/7/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Trảng Bom).

3. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Hùng S phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

310
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội chứa mại dâm số 164/2021/HSST

Số hiệu:164/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về