TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 07/2024/HS-PT NGÀY 26/01/2024 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM
Ngày 26 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đ mở phiên toà xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 142/2023/TLPT-HS ngày 09 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo Lê Xuân T, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 77/2023/HS-ST ngày 25-9-2023 của Tòa án nhân dân thành phố G, tỉnh Đ.
Bị cáo kháng cáo: Lê Xuân T, sinh năm 2003 tại tỉnh Đ; nơi cư trú: Thôn 4, xã Nhân Cơ, huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 8/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; con ông Lê Xuân T và bà Hoàng Thị D; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26-5-2022 đến ngày 11-10-2022; tại ngoại; có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Lương Minh K-Văn phòng Luật sư K thuộc đoàn luật sư tỉnh Đ; có mặt.
Những người làm chứng:
Anh Đàm Tiến H, sinh năm: 1985; địa chỉ: Tổ dân phố 03, phường Nghĩa Thành, thành phố G, tỉnh Đ.
Anh Nguyễn Minh Đ, sinh năm 1983; địa chỉ: Tổ dân phố 5, phường Nghĩa Tân, thành phố G, tỉnh Đ.
Anh Nguyễn Bình T1, sinh năm 1994; địa chỉ: Thôn 12, xã Nhân Cơ, huyện Đắk R’lấp, tỉnh Đ.
Anh Nguyễn Đức T2, sinh năm 1989; địa chỉ: Xã Tân Tiến, thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước.
Anh Nguyễn Đức T3, sinh năm 1999; địa chỉ: Tổ dân phố 5, phường Nghĩa Trung, thành phố G, tỉnh Đ.
Chị Ngô Thị T4, sinh năm 1988; địa chỉ: Phường Tân Liên, thị xã Thái Hoà, tỉnh A
Chị Trần Thị T5, sinh năm 1982; địa chỉ: Xóm 4. Xã Diễn Trung, huyện Diễn Châu, tỉnh A.
Chị Hoàng Mỹ K, sinh năm 1999; địa chỉ: Xã Hoàng Long, huyện Phú Xuyên, thành phố H.
Chị H’N Mlô Dôn D, sinh năm 1989; địa chỉ: Phường Tân Lập, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh D.
Chị Phan Thị T6, sinh năm 1985; địa chỉ: Thị trấn Hoàn Lão, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Chị Lê Thị Kim H1, sinh năm 1975; địa chỉ: Tổ dân phố 5, phường Nghĩa Tân, thành phố G, tỉnh Đ.
Những người làm chứng đều vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng đầu tháng 4/2022, Lê Xuân T đến gặp Lê Thị Kim H1 xin vào làm việc ở cơ sở massage C thì H1 đồng ý. Tại đây, T được giao quản lý cơ sở, bán vé, thu tiền vé, đưa khách lên phòng, điều nhân viên nữ vào phòng phục vụ khách, đến cuối ngày thì tổng hợp tiền bán vé trong ngày và giao trực tiếp cho H1.Vào khoảng 20 giờ 00 phút, ngày 26-5-2022, Đàm Tiến H, Nguyễn Minh Đ, Nguyễn Bình T1, Nguyễn Đức T2, Nguyễn Đức T3 và Võ Văn Q đến cơ sở massage C mua vé vào xông hơi với giá mỗi vé là 250.000đ. Lúc này, H hỏi T “Có dịch vụ đến Z không?” (Ý có nhân viên phục vụ quan hệ tình dục không) thì Tuân nói H vào phòng chờ để T điều nhân viên đến. Sau đó, T lần lượt điều Ngô Thị T4 vào phòng số 01 phục vụ H; Trần Thị T5 vào phòng số 2 phục vụ Đ, Hoàng Mỹ K vào phòng số 6 phục vụ T1, H’N Mlô Dôn D vào phòng số 9 phục vụ T2, Phan Thị T6 vào phòng số 11 phục vụ T3. Do hết nhân viên nên T dẫn Q lên phòng 13 và nói Q chờ, khi nào có nhân viên sẽ bố trí phục vụ sau. Sau khi vào phòng, giữa H và T4; Đ và T5; T2 và H’N thỏa thuận mua bán dâm với giá 500.000đ; còn T1 và K; T3 và T4 thỏa thuận mua bán dâm với giá 600.000đ. Khi các cặp đôi đang có hành vi quan hệ tình dục thì bị lực lượng Cơ quan CSĐT Công an thành phố G bắt quả tang.
Bản án số: 77/2023/HS-ST ngày 25-9-2023 của Tòa án nhân dân thành phố G, tỉnh Đ đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Lê Xuân T phạm tội “Chứa mại dâm”.
Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 327, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Lê Xuân T 05 (Năm) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 26-5-2022 đến ngày 11-10-2022.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo.
Ngày 05-10-2023, bị cáo kháng cáo toàn bộ bản án, bị cáo yêu cầu xem xét lại tội danh đồng thời xem xét hành vi của Lê Thị Kim H1.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại tội danh đồng thời xem xét hành vi của Lê Thị Kim H1.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ, sau khi phân tích các tình tiết của vụ án và kết quả tranh luận tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 355; điểm a, b khoản 1 Điều 358 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Hủy bản án hình sự sơ thẩm số 77/2023/HS-ST ngày 25-9-2023 của Tòa án nhân dân thành phố G, tỉnh Đ để điều tra lại theo quy định.
Tại phiên tòa, Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng: Hành vi của T không cấu thành tội “Chứa mại dâm”. Chủ thể của tội phạm là người quản lý chịu trách nhiệm nhưng bản chất công việc của bị cáo T chỉ là người làm thuê và được trả lương là 5.000.000 đồng/tháng. Đồng thời các nhân viên trong cơ sở massage khai gặp bà Lê Thị Kim H1 để xin việc, vì vậy bà H mới là quản lý của cơ sở masage C. Do đó, cấp sơ thẩm quyết định bị cáo phạm tội “Chứa mại dâm” là không có cơ sở và bỏ lọt người phạm tội là bà Lê Thị Kim H1. Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hủy toàn bộ bản án, trả hồ sơ vụ án để điều tra lại.
Tại phiên tòa, bị cáo nhất trí với luận cứ của Luật sư bào chữa, không bổ sung thêm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng: Ngày 25-9-2023 Tòa án nhân dân thành phố G xét xử sơ thẩm, ngày 05-10-2023 bị cáo có đơn kháng cáo. Kháng cáo của bị cáo gửi đến Tòa án trong thời hạn luật định, hình thức và nội dung phù hợp với quy định tại Điều 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, nên được chấp nhận xem xét theo trình tự xét xử phúc thẩm.
[2]. Qua nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm Hội đồng xét xử xét thấy: Mặc dù cấp sơ thẩm đã trả hồ sơ điều tra bổ sung yêu cầu làm rõ các nội dung liên quan đến việc xác định cấu thành tội phạm “chứa mại dâm” Lê Thị Kim H1 và Phan Thị T6 (tên gọi khác là H2) nhưng Viện kiểm sát nhân dân thành phố G vẫn giữ nguyên quyết định truy tố. Hội đồng xét xử thấy rằng hành vi của H1 và T6 có dấu hiệu phạm tội. Bởi lẽ, tại biên bản phạm tội quả tang và các lời khai của nhân viên tại cơ sở xông hơi, massage C gồm Ngô Thị T4, Trần Thị T5, Hoàng Mỹ K, H’N Mlô Dôn D đều thừa nhận Lê Thị Kim H1 là chủ cơ sở xông hơi, massage C, trước khi vào làm có thỏa thuận không trả lương mà nhận tiền “bo” của khách bằng hình thức bán dâm, H sinh sống cạnh cơ sở massage điều hành, giám sát hoạt động của các nhân viên qua hệ thống camera (bút lục 12,122, 125, 132, 135142, 149, 164, 165). Sau khi trả hồ sơ thì H’N, Th, Th1, K đều thay đổi lời khai không biết H có biết việc bán dâm hay không? Những lời khai này có mâu thuẫn nhưng không được đối chất, điều tra làm rõ. Đồng thời, Cơ quan điều tra chưa thực hiện việc thu giữ chứng cứ quan trọng là camera giám sát tại cơ sở xông hơi, massage C để điều tra làm rõ hành vi có liên quan đến tội phạm của Lê Thị Kim H1. Mặt khác, ông Phạm Đình T7 cũng thừa nhận đã giao quyền quản lý cho H1. Đối với hành vi của Phan Thị Thời chưa điều tra làm rõ được việc T7 (H2) có đồng thời cùng Tuân quản lý cơ sở massge hay không? Thời hay ai trả lương cho T và T6 có điều nhân viên khi có khách không? (theo lời khai của T thì Thời là người quản lý trực tiếp, trả lương cho T và có nhắn tin cho T về việc điều nhân viên lên phục vụ khách). Xét thấy, cần điều tra xác định rõ vai trò của Lê Thị Kim H1 và Phan Thị T7, do đó Hội đồng xét xử phúc thẩm cần hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ cho cấp sơ thẩm để điều tra làm rõ hành vi, vai trò của Lê Thị Kim H1 và Phạm Thị T6 (H2) có dấu hiệu phạm tội đồng phạm với Lê Xuân T, tránh bỏ lọt người phạm tội.
[3]. Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ là có căn cứ cần chấp nhận. Xét quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo một phần có căn cứ cần chấp nhận.
[4]. Do hủy bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại nên không xem xét đến nội dung kháng cáo xem xét lại tội danh của bị cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 355; điểm a, b khoản 1 Điều 358 của Bộ luật Tố tụng hình sự, hủy Bản án sơ thẩm số 77/2023/HS-ST ngày 25-9-2023 của Tòa án nhân dân thành phố G, tỉnh Đ, chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân thành phố G, tỉnh Đ để điều tra lại theo quy định pháp luật.
2. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội chứa mại dâm số 07/2024/HS-PT
Số hiệu: | 07/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về