Bản án về tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy số 48/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 48/2022/HSST NGÀY 22/02/2022 VỀ TỘI CHỨA CHẤP VIỆC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 05/2022/TLST-HS ngày 07 tháng 01 năm 2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: NGUYỄN BẢO T (tên gọi khác: Đ); sinh năm 1995, tại tỉnh: Đắk Lắk; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: LD, phường ET, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 8/12; con ông: Nguyễn Bảo Tri Th – sinh năm 1975 và con bà: Nguyễn Thị Đoan Tr – sinh năm 1977; bị cáo có vợ là Nguyễn Thị D – sinh năm 1999; bị cáo có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2017, con nhỏ nhất sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

+ Ngày 18/7/2013, bị Uỷ ban nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk ban hành Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh thời hạn 24 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

+ Ngày 01/11/2021, bị Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 02 năm 09 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bản án số 332/2021/HSST ngày 01/11/2021. Hiện đang chấp hành án tại trại giam Đắk Tân – Bộ Công An. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa) * Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Đặng Hoàng V – sinh năm 1995; địa chỉ: NTT, phường ET, thành phố B, Đắk Lắk (vắng mặt).

+ Ông Trần Ngọc T1 – sinh năm 1998; địa chỉ: Tdp 6, phường TN, thành phố B, Đắk Lắk (vắng mặt).

+ Ông Nguyễn Phan Tuấn T2 – sinh năm 1995; địa chỉ: Thôn TH, xã EK, thành phố B, Đắk Lắk (vắng mặt).

+ Ông Nguyễn Sỹ H – sinh năm 1995; địa chỉ: Thôn VN, xã VQ, huyện TT, thành phố Hà Nội (vắng mặt).

+ Ông Lê Nam S – sinh năm 1997; địa chỉ: LVH, phường ET, thành phố B, Đắk Lắk (vắng mặt).

* Người chứng kiến:

+ Ông Vũ Xuân T3 – sinh năm 1962; địa chỉ: NCT, phường TA, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (vắng mặt).

+ Ông Nguyễn Bá C – sinh năm 1962; địa chỉ: ĐTH, phường TA, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 30/3/2021, Nguyễn Bảo T thuê phòng số 207 khách sạn NS tại địa chỉ: LVH, phường ET, Tp. B, tỉnh Đắk Lắk ở một mình. Sau đó, có người bạn tên là T4 và Đ (không rõ nhân thân lai lịch) đến phòng 207 chơi với T. Tại đây, T4 cho T cái nỏ dụng cụ sử dụng ma túy bên trong có sẵn ma túy. T4 và Đ ngồi chơi trong phòng nhưng không sử dụng ma túy. Khoảng 23 giờ cùng ngày, Nguyễn Phan Tuấn T2, Nguyễn Sỹ H đang thuê phòng 206 cùng khách sạn đi qua phòng 207 của T. Sau đó, T1, T2, H sử dụng hết số ma túy trong nỏ. T2 đi về phòng 206, H thì ngủ lại phòng 207; còn T4, Đ đi về và để lại cho T cái nỏ. Lúc này, H ngủ tại phòng 207 nên T thuê phòng 208 cùng khách sạn để ngủ. Đến khoảng 09 giờ ngày 01/4/2021, khi T đang ở phòng 208 thì Trần Ngọc T1 gọi điện hỏi đang ở đâu để đến chơi, khoảng 10 phút sau T1 đi đến, rồi Tuấn rủ T1 đi qua phòng 207 sử dụng ma túy.

Lúc này, trong phòng có sẵn nỏ nên T1 lấy ma túy bỏ vào nỏ cùng sử dụng với T. T1 bảo T gọi điện rủ Đặng Hoàng V đến sử dụng ma túy. Cùng lúc có người tên H1 (chưa rõ nhân thân lai lịch) gọi điện hỏi mua 02 gói ma túy đá với số tiền là 700.000 đồng thì T đồng ý bán. Sau đó, T gọi điện cho V rủ sử dụng ma túy, đồng thời nói V bán cho Tuấn 02 gói ma túy với giá 600.000 đồng. Khoảng 5 phút sau, V đến cửa phòng 207 đưa cho T 02 gói nylon chứa ma túy, T cất giấu vào trong túi quần phía trước bên phải rồi cùng V đi vào trong phòng sử dụng ma túy với T1; còn H nằm trên giường không sử dụng ma túy.

Sau đó, T mượn xe môtô mang biển số 47H5-5739 của T, cất giấu 02 gói ma túy trong ổ bánh mì HN đi về hướng Bệnh viện đa khoa vùng TN đến điểm hẹn để bán ma túy, nhưng chưa kịp bán thì bị Công an phường Tự An phát hiện, bắt người phạm tội quả tang thu giữ trên tay trái của Nguyễn Bảo T 02 gói nylon bên trong chứa chất rắng dạng tinh thể màu trắng, được niêm phong theo quy định.

Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Bảo T tại phòng 207 khách sạn NS tại địa chỉ: LVH, phường ET, Tp. B, thu giữ: 01 gói nylon bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng ở dưới gầm giường tại phòng ngủ 207 được niêm phong trong 01 phong bì thư có chữ ký ghi tên: Đặng Hoàng V, Nguyễn Sỹ H, Trần Ngọc T1, Lê Nam S và đóng dấu tròn đỏ của Công an phường Ea Tam, thành phố Buôn Ma Thuột và 01 dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 chai nước lọc đã uống hết nước, thân chai có gắn 01 nỏ thủy tinh, phần đầu gắn ống hút nhựa.

Tại bản kết luận giám định số 1153/C09C-Đ2 ngày 28/9/2021 của Phân viện khoa học kỹ thuật hình sự tại thành phố Đà Nẵng, kết luận: Chất bám dính trong ống thủy tinh gắn trên nắp vỏ chai nhựa gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine. Mẫu vật quá ít nên không xác định được khối lượng.

Tại bản kết luận giám định số 395/GĐMT-PC09 ngày 09/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng đựng trong 02 gói nylon gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,6881 gam, loại Methamphetamine. Mẫu vật còn lại sau giám định là 0,6321 gam.

Tại bản kết luận giám định số 396/GĐMT-PC09 ngày 09/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng đựng trong 01 gói nylon gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,6216 gam, loại Methamphetamine. Mẫu vật còn lại sau giám định là 1,5550 gam.

Quá trình điều tra cơ quan cảnh sát điều tra đã tiến hành điều tra, xác minh thu thập chứng cứ nhưng Đặng Hoàng V không thừa nhận đã bán ma túy cho Nguyễn Bảo T. Trần Ngọc T1 không thừa nhận cung cấp ma túy cho T và V sử dụng. Trần Ngọc T1 và Nguyễn Sỹ H không thấy V, T giao dịch mua bán ma túy với nhau. Do đó không có căn cứ để xác định nguồn gốc ma túy mà bị cáo đã bán và nguồn gốc ma túy bị cáo và các đối tượng khác đã sử dụng.

Đối với đối tượng tên T4 và Đ có hành vi cho Nguyễn Bảo T 01 cái nỏ là dụng cụ sử dụng ma túy và đối tượng tên H1 có hành vi hỏi mua chất ma túy của bị cáo T. Cơ quan cảnh sát điều tra đã có Công văn gửi tổng Công ty viễn thông để xác minh chủ sở hữu nhưng đến nay vẫn chưa có kết quả, do chưa xác minh được nhân thân, lai lịch của những người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã tách hành vi bán ma túy ra khỏi vụ án để tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý theo quy định.

Đối với hành vi mua bán trái phép chất ma túy của Nguyễn Bảo T đối với 0,6881 gam, loại Methamphetamine, ngày 01/11/2021 Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã xử phạt Nguyễn Bảo T 02 năm 09 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại bản cáo trạng số 31/CT-VKS ngày 29/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã truy tố bị cáo Nguyễn Bảo T về tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, d khoản 2 Điều 256 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Bảo T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Bảo T và giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Bảo T phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”.

+ Áp dụng điểm b, d khoản 2 Điều 256; điểm s, r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Bảo T mức án từ 08 năm tù đến 09 năm tù. Áp dụng khoản 1 Điều 56 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt 02 năm 09 tháng tù của bản án hình sự sơ thẩm số 332/2021/HSST ngày 01/11/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án từ 10 năm 09 tháng tù đến 11 năm 09 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 01/4/2021.

+ Về xử lý vật chứng: Đối với 01 vỏ chai nhựa có phần đầu nắp đục hai lỗ có gắn thủy tinh và ống hút nhựa, toàn bộ vỏ bao gói được niêm phong trong phong bì số 1153/C09C-Đ2 bên ngoài có dấu đỏ của Phân viện khoa học hình sự tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tịch thu tiêu hủy.

Bị cáo không bào chữa, tranh luận gì, mà chỉ xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, tuân thủ đầy đủ theo quy định của thủ tục tố tụng về thu thập tài liệu chứng cứ của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến không ai có ý kiến hoặc khiếu nại đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và hình phạt: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai mà bị cáo đã khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ căn cứ pháp lý để kết luận: Ngày 30/3/2021, Nguyễn Bảo T đã thuê phòng số 207 của khách sạn NS, tại địa chỉ: LVH, phường ET, thành phố B, Đắk Lắk để ở, vào khoảng 23 giờ ngày 30/3/2021 Nguyễn Bảo T đã có hành vi chứa chấp Nguyễn Phan Tuấn T2, Nguyễn Sỹ H sử dụng ma túy tại phòng 207, tiếp đến vào khoảng 09 giờ ngày 01/4/2021, Nguyễn Bảo T tiếp tục có hành vi chứa chấp Đặng Hoàng V, Trần Ngọc T1 sử dụng trái phép chất ma túy tại phòng 207.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Bảo T đã phạm vào tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b, d khoản 2 Điều 256 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Điều 256 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định:

“1. Người nào cho thuê cho mượn địa điểm hoặc có bất kỳ hành vi nào khác chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy nếu không thuộc trường hợp được quy định tại Điều 255 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

...

b, Phạm tội 02 lần trở lên;

...

d, Đối với 02 người trở lên;

....” Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Bảo T là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo nhận thức được rằng các chất ma túy do nhà nước độc quyền quản lý, mọi hành vi mua bán, sử dụng, chứa chấp người khác sử dụng trái phép chất ma túy đều bị pháp luật nghiêm cấm, bị cáo biết được tác hại của ma túy đối với sức khỏe của con người. Tuy nhiên, bị cáo đã có hành vi chứa chấp cho những người khác sử dụng trái phép chất ma túy tại địa điểm do bị cáo quản lý, sử dụng. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quy định nhà nước về sử dụng chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội mà mình đã thực hiện.

Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình, quá trình điều tra bị cáo đã tự thú về hành vi phạm tội của mình đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s, r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử cần áp dụng khi xem xét quyết định hình phạt đối với bị cáo để thể hiện sự khoan hồng, nhân đạo của pháp luật.

Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định có như vậy mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[3] Về vật chứng của vụ án: 01 vỏ chai nhựa có phần đầu nắp đục hai lỗ có gắn thủy tinh và ống hút nhựa, toàn bộ vỏ bao gói được niêm phong trong phong bì số 1153/C09C-Đ2 bên ngoài có dấu đỏ của Phân viện khoa học hình sự tại Đà Nẵng đề nghị tiêu hủy [4] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 256 Bộ luật hình sự; Điều 260, Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự;

[1] Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Bảo T (tên gọi khác: Đ) phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”.

[2] Về điều luật áp dụng và hình phạt:

- Áp dụng điểm b, d khoản 2 Điều 256; điểm s, r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Bảo T (tên gọi khác: Đ) 08 (tám) năm tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, tổng hợp hình phạt 02 năm 09 tháng tù của bản án hình sự sơ thẩm số 332/2021/HSST ngày 01/11/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 10 (mười) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 01/4/2021.

[3] Về xử lý vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 vỏ chai nhựa có phần đầu nắp đục hai lỗ có gắn nỏ thủy tinh và ống hút nhựa, toàn bộ bao gói còn lại sau giám định trong gói niêm phong số 1153/C09C-Đ2 của Phân viện khoa học hình sự tại Đà Nẵng.

(Vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, đặc điểm cụ thể theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/01/2022).

[4] Án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Bảo T phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy số 48/2022/HSST

Số hiệu:48/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về