Bản án về tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý số 32/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THAN UYÊN, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 32/2023/HS-ST NGÀY 25/12/2023 VỀ TỘI CHỨA CHẤP VIỆC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 25/12/2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân, huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 35/2023/TLST- HS, ngày 15/11/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2023/QĐXXST-HS ngày 12/12/2023 đối với bị cáo:

Lò Văn A; Sinh ngày: 09/9/1981, tại huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu. Nơi ĐKHKT: bản S, xã P, huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: không biết chữ; Dân tộc: Thái; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Lò Văn L, sinh năm: 1952 và bà Lò Thị B, sinh năm 1953; Bị cáo có vợ: Lò Thị Tuyết, sinh năm 1982, có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2004, con nhỏ nhất sinh năm 2009; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 20/01/2014, Lò Văn A bị Tòa án nhân dân huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu xử phạt 26 tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, Lò Văn A đã chấp hành xong bản án và hiện đã xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giữ hồi tạm giữ từ ngày 14/6/2023, tạm giam từ ngày 23/6/2023, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Than Uyên. (Có mặt tại phiên tòa).

Người bào chữa cho bị cáo là ông Nguyễn Xuân O – Luật sư hợp đồng của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lai Châu (Có mặt tại phiên tòa).

Người làm chứng gồm: Lò Văn H, sinh năm 1993;

Địa chỉ: bản Đội A, xã P, huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu.

Tòng Hà Tr, sinh năm: 1990; Địa chỉ: bản Lả Mường, xã Mường C, huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu.

(Những người làm chứng vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 13/6/2023, Lò Văn A đang một mình ở nhà tại bản S, xã P, huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu thì có Lò Văn H (sinh ngày 19/3/1993, trú tại bản Đội A, xã P, huyện Than Uyên) và Tòng Hà Tr (sinh ngày 06/8/1990, trú tại bản Lả Mường, xã Mường C, huyện Than Uyên) đến nhà gặp Á. H đưa cho A số tiền 265.000 đồng và bảo A đi tìm mua Heroine về cùng nhau sử dụng, A đồng ý. H và Tr ở nhà của A đợi, A một mình đi bộ đến bản Nà Dắt, xã P, huyện Than Uyên mua 01 cục Heroine (không gói) từ một người đàn ông không rõ lai lịch. Sau đó, Acầm Heroine về nhà bản S, xã P, huyện Than Uyên. Khi về đến nhà, A đi vào buồng ngủ của mình, H và Tr cũng đi theo A vào trong buồng ngủ. Tại buồng ngủ của mình, A chia số Heroine vừa mua thành 04 cục nhỏ. A lấy 01 cục Heroine để riêng ra sử dụng cho bản thân. Số Heroine còn lại gồm 03 cục, A đưa cho Lò Văn H. H cầm Heroine rồi xin phép A cho H và Tr sử dụng Heroine tại nhà của A và được A đồng ý. A ngồi trong buồng ngủ của mình sử dụng hết số Heroine mà A đã để riêng ra trước đó bằng hình thức hít. H chia cho Tr một ít Heroine rồi H, Tr cùng nhau sử dụng Heroine bằng hình thức hít tại buồng ngủ của Lò Văn A. Sau khi sử dụng Heroine, H gói số Heroine còn lại, cất vào trong ví rồi H và Tr cùng nhau đi về.

Đến hồi 21 giờ 30 phút ngày 13/6/2023, tại Khu 6, thị trấn Than Uyên, huyện Than Uyên, Lò Văn H lấy số Heroine còn lại ra sử dụng thì bị lực lượng Công an huyện Than Uyên phát hiện, lập biên bản vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, thu giữ của Lò Văn H 01 mảnh giấy bạc đã bị than hóa và 01 bật lửa ga (đã qua sử dụng). Cơ quan điều tra tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp và khám xét khẩn cấp nơi ở đối với Lò Văn A, thu giữ 01 mảnh giấy bạc đã bị than hóa và 01 bật lửa ga đã qua sử dụng.

Kết quả xét nghiệm tìm chất ma túy trong nước tiểu của Lò Văn H, Tòng Hà Tr ngày 13/6/2023 và của Lò Văn A ngày 14/6/2023 đều có kết quả dương tính với Morphine (MOP) loại: Heroine Vật chứng còn lại của vụ án: 01 mảnh giấy bạc đã bị than hóa và 01 bật lửa ga đã qua sử dụng thu giữ của Lò Văn H; 01 mảnh giấy bạc đã bị than hóa và 01 bật lửa ga đã qua sử dụng thu giữ của Lò Văn A. Hiện số vật chứng trên đang được lưu giữ tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Than Uyên.

Bản cáo trạng số: 172/CT-VKS ngày 14/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Than Uyên đã truy tố bị cáo Lò Văn A về tội: “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 256 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thừa nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và bản cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo theo nội dung bản cáo trạng, sau khi phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lò Văn A phạm tội: “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý".

Về hình phạt: Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 256; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38 - Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Lò Văn A từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù.

Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 3 Điều 256 - Bộ luật hình sự 2015 đối với bị cáo.

Về vật chứng: áp dụng khoản 1 Điều 47 – BLHS; điểm c khoản 2 Điều 106 – Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy vật chứng gồm: 01 mảnh giấy bạc đã bị than hóa và 01 bật lửa ga đã qua sử dụng thu giữ của Lò Văn H; 01 mảnh giấy bạc đã bị than hóa và 01 bật lửa ga đã qua sử dụng thu giữ của Lò Văn A.

Về án phí: Miễn 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày luận cứ bào chữa: nhất trí về tội danh cũng như điều luật, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Than Uyên đã trình bày, đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo mức thấp nhất của khung hình phạt. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo không bổ sung ý kiến gì thêm, nhất trí và không tranh luận với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Than Uyên tỉnh Lai Châu.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và xin miễn án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Than Uyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Than Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo, người bào chữa không có ý kiến gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo, tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Vì vậy, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 14 giờ ngày 13/6/2023, tại nơi ở của gia đình mình thuộc bản S, xã P, huyện Than Uyên, tỉnh Lai Châu, Lò Văn A đã cùng một lúc chứa chấp 02 người là Lò Văn H và Tòng Hà Tr sử dụng trái phép Heroine. Bị cáo Lò Văn A là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do đó, đủ căn cứ kết luận bị cáo Lò Văn A phạm tội “ Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 256 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 nên việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Than Uyên đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ phạm tội: Bị cáo Lò Văn A đã có hành vi chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy tại nơi ở của mình cho các đối tượng Lò Văn H và Tòng Hà Tr sử dụng trái phép chất ma túy xâm phạm chế độc quyền quản lý, sử dụng chất ma túy của Nhà nước, bị cáo A còn góp phần làm lan truyền tệ nạn nghiện hút ma túy. Hành vi của bị cáo Lò Văn A là coi thường pháp luật, làm mất trật tự, an ninh tại địa phương, nên cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Vì vậy, xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51- Bộ luật hình sự 2015.

[5] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng TNHS.

Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nhưng năm 2014, đã bị Tòa án nhân dân huyện Than Uyên xử phạt 36 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo không tự rèn luyện bản thân, vì nghiện chất ma túy muốn hưởng lợi từ việc cho các đối tượng nghiện chát ma túy sử dụng ma túy tại nhà mình nên đã cố ý thực hiện hành vi tội phạm mà pháp luật nghiêm cấm. Do đó, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Đối với các luận cứ người bào chữa đưa ra như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Than Uyên là có căn cứ nên Hội đồng xé xử chấp nhận toàn bộ.

[6] Về hình phạt bổ sung: bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, không có thu nhập nào khác, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền theo quy định tại khoản 3 Điều 256- Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

[7] Biện pháp ngăn chặn: cần áp dụng điều 329 – Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo việc thi hành án, thời gian tạm giữ, tạm giam sẽ được khấu trừ vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

[8] Về vật chứng của vụ án gồm: 01 mảnh giấy bạc đã bị than hóa và 01 bật lửa ga đã qua sử dụng thu giữ của Lò Văn H; 01 mảnh giấy bạc đã bị than hóa và 01 bật lửa ga đã qua sử dụng thu giữ của Lò Văn A là vật không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với hành vi của Lò Văn H bỏ tiền, Lò Văn A đi mua Heroine, khi về H cho Lò Văn A, Tòng Hà Tr sử dụng. Xét thấy đây là hành vi có tính giản đơn của người nghiện có chất ma túy cho người nghiện khác cùng sử dụng trái phép, không có sự chỉ huy, phân công, điều hành, chuẩn bị, cung cấp địa điểm, phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy. Do vậy, cơ quan điều tra không xử lý Lò Văn H, Lò Văn A về hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là có căn cứ. Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Lò Văn H, Tòng Hà Tr, Lò Văn A, Công an huyện Than Uyên đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là có căn cứ.

Về nguồn gốc Heroine, Lò Văn A khai mua từ một người đàn ông không rõ lai lịch tại bản Nà Dắt, xã P, huyện Than Uyên nên không có căn cứ để xác minh, điều tra, xử lý..

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Miễn 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Quyết định 612/QĐ-UBDT ngày 16/9/2021 của Ủy ban dân tộc phủ phê duyệt danh sách các thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021- 2025 do bị cáo Lò Văn A là người dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn.

Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 256; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38; khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Căn cứ vào điều 135, khoản 2 Điều 136; khoản 2 Điều 106; Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên bố bị cáo: Lò Văn A phạm tội: “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý".

1. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lò Văn A 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn thi hành hình phạt tù tính từ ngày 14/6/2023.

Miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo Lò Văn A

2. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 02 mảnh giấy bạc đã bị than hóa; 01 bật lửa ga màu xanh đã qua sử dụng và 01 bật lửa ga màu đỏ đã qua sử dụng.

(Tình trạng vật chứng, tài sản theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 16/11/2023 giữa Công an huyện Than Uyên và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Than Uyên)

3. Về án phí: Miễn 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn A .

4. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Toà án nhân dân cấp trên để xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý số 32/2023/HS-ST

Số hiệu:32/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Than Uyên - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:25/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về