Bản án về tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy số 04/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỚI BÌNH, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 04/2024/HS-ST NGÀY 30/01/2024 VỀ TỘI CHỨA CHẤP VIỆC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Trong các ngày 29 và 30 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thới Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 43/2023/TLST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2024/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 01 năm 2024, đối với bị cáo:

Lê Hồng N, sinh năm 1983 tại huyện T, tỉnh Cà Mau; nơi cư trú: Ấp D, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Mua bán; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Hoàng T và bà Nguyễn Thị N1; anh chị em ruột: có 02 người; chồng: Phan Thành T1; con: 02 người; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 30/6/2023 chuyển tạm giam ngày 09/7/2023 cho đến nay. (có mặt) Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Lê Thanh T2 - Văn phòng luật sư Lê Thanh T2 thuộc Đoàn luật sư tỉnh C. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 29/6/2023, T3 gọi điện thoại cho N đặt phòng bay và yêu cầu N chuẩn bị cho T3 01 cái đĩa đem vào phòng. Do trước đó T3 có đến quán của N đặt phòng hát, sau khi T3 về, N vào dọn phòng có nhặt được 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng được cuộn tròn giống ống hút và thông qua phương tiện báo, đài N biết được nghĩa của từ “phòng bay” là phòng hát có sử dụng ma tuý. N biết T3 đặt phòng để sử dụng ma tuý, nhưng vì muốn có tiền chi xài cho gia đình nên N đồng ý cho T3 thuê phòng tại quán để cùng bạn sử dụng ma tuý. Nhật hỏi T3 đi bao nhiêu người, T3 nói với N khoảng 4 đến 5 người và hỏi N “có biết ai ra đồ không?”. Nhật hiểu T3 hỏi tìm người bán ma tuý, vì không biết ai bán ma tuý nên N nói “Không biết ai ra đồ”. T3 nói với N để tự kiếm rồi tắt điện thoại. N biết việc cho T3 thuê phòng để sử dụng ma tuý là vi phạm pháp luật, để tránh bị phát hiện N chuẩn bị phòng hát số 5 là phòng cuối, nằm sâu bên trong quán. N mang vào phòng để sẵn cho T3 01 cái đĩa tròn màu trắng. Đến khoảng 18 giờ 30 thì T3 và Bé đến quán, N trực tiếp dẫn T3 và B vào phòng số 5. Sau khi mang bia, thức ăn vào phòng thì N đi ra phía trước quán. Do có hẹn trước nên đến khoảng 19 giờ thì H, Đ trực tiếp vào phòng số 5 gặp T3, B và cùng nhau thống nhất góp tiền mua ma tuý để sử dụng. T3 dùng điện thoại gọi vào số 03488501xx để mua 1.800.000 đồng ma tuý của một người thanh niên không rõ tên, địa chỉ. Sau khi nhận được ma tuý, T3 bỏ vào đĩa và trực tiếp dùng thẻ nhựa cà mịn ma tuý loại Ketamine rồi cùng với B, H, Đ sử dụng ma túy. Vào khoảng 20 giờ 30 phút, N vào phòng điều chỉnh âm thanh cho T3 thì bị Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an tỉnh C phối hợp với Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh c kiểm tra bắt quả tang Phan Minh T4, Nguyễn Văn B1, Trần Thế H1 và Huỳnh Đ1 đang sử dụng trái phép chất ma tuý tại phòng số 5 của Quán K thuộc Ấp D, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau do Lê Hồng N trực tiếp quản lý. Tang vật thu giữ: 01 đĩa sứ màu trắng hình tròn, trên đĩa có chứa chất bột màu trắng nghi là ma tuý; 01 thẻ nhựa màu vàng có dòng chữ “LOUIS VUITTON”; 01 tờ tiền VNĐ mệnh giá 1.000 đồng; 01 tờ tiền VNĐ mệnh giá 10.000 đồng được cuộn tròn, bên ngoài có vỏ đầu lọc thuốc lá cố định; 01 bọc nilon màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh, bị vỡ màng hình, trong máy có gắn sim số 09355031xx và số 09456161xx. Đối với đĩa sứ hình tròn màu trắng, trên đĩa có chứa chất bột màu trắng nghi là ma tuý được niêm phong theo quy định.

Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an tỉnh C tiến hành xét nghiệm chất ma tuý trong cơ thể của Phan Minh T4, Nguyễn Văn B1, Trần Thế H1 và Huỳnh Đ1, kết quả xét nghiệm xác định: T4, B1, H1 và Đ1 đều dương tính với chất ma tuý trong cơ thể.

Tại Kết luận giám định số 308/KL-KTHS ngày 04/7/2023 của Phòng K1, Công an tỉnh C kết luận: Chất bột màu trắng bám dính trên bề mặt đĩa sứ trắng hình tròn được niêm phong kín trong phong bì hình chừ nhật, ký hiệu M20/2023 gửi giám định là ma tuý, có khối lượng 0,0318 gam, loại Ketamine.

Tại Cáo trạng số 43/CT-VKS ngày 16/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Bình đã truy tố Lê Hồng N về tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm d khoản 2 Điều 256 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Lê Hồng N thừa nhận hành vi của mình như nội dung cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội đối với bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 256; điểm s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự. Tuyên phạt bị cáo Lê Hồng N mức án từ 06 năm đến 07 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì hoàn mẫu được niêm phong của Phòng K1 Công an tỉnh c số 308/KL-KTHS ngày 04/7/2023, tên mẫu: phong bì hình chữ nhật ký hiệu M20/2023, 01 đĩa sứ tròn, màu trắng, ký hiệu M20/2023; 01 thẻ nhựa màu vàng có dòng chữ “LOUIS VUITTON”; 01 vỏ đầu lọc thuốc lá màu vàng; 01 bọc nilon màu trắng; 02 thẻ sim: sim 1 số 09355031xx, sim 2 số 09456161xx Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 tờ tiền VNĐ mệnh giá 1.000 đồng; 01 tờ tiền VNĐ mệnh giá 10.000 đồng được cuộn tròn thành ống hút; 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh, màng hình bị vỡ.

Đối với người thanh niên bán ma túy cho T4, do không xác định được thông tin nên chưa có căn cứ xử lý. Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh và xử lý sau là phù hợp.

Đối với T4, B1, H1, Đ1 đều là người nghiện ma túy nên cùng nhau góp tiền thuê phòng và mua ma túy để sử dụng. Khi bắt quả tang ma túy bị thu giữ có khối lượng 0,0318 gam, loại Ketamine không đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự T4, B1, H1, Đ1. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với T4, Bé, H1, Đ1 về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là có căn cứ.

Quán K do ông Lê Hoàng T là cha của bị cáo N đăng ký kinh doanh nhưng ông T đã giao cho bị cáo N trực tiếp quản lý kinh doanh khoảng 06 năm. Ngày 29/6/2023, bị cáo N cho T4, B1, H1 và Đ1 thuê phòng để sử dụng ma túy ông T không hay biết nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T không xử lý ông T là có căn cứ.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo biết lỗi của bị cáo, bị cáo rất ăn năn hối cải, kính xin Hội đồng xét xử độ lượng xem xét cho bị cáo mức án nhẹ nhất sớm được về với gia đình, bị cáo hứa sẽ không dám tái phạm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Bình, Kiểm sát viên từ khi khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Thực tế, quá trình này bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Lê Hồng N đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Bình đã truy tố. Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, lời khai của những người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở để xác định: Vào khoảng 20 giờ 30 phút, ngày 29/6/2023, Lê Hồng N có hành vi chứa chấp các đối tượng Phan Minh T4, Nguyễn Văn B1, Trần Thế H1 và Huỳnh Đ1 sử dụng trái phép chất ma tuý tại phòng số 5 của Quán K thuộc Ấp D, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau do Lê Hồng N trực tiếp quản lý thì bị lực lượng Công an tỉnh C kiểm tra bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng. Như vậy, Cáo trạng số 43/CT-VKS ngày 16/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Bình truy tố bị cáo Lê Hồng N về tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm d khoản 2 Điều 256 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về việc sử dụng chất ma túy, bị cáo biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý, làm mất trật tự trị an tại địa phương, gây dư luận bất bình trong nhân dân. Bị cáo đã sử dụng nơi kinh doanh do mình quản lý cho 04 đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy. Từ việc sử dụng ma túy là nguyên nhân phát sinh các loại tệ nạn xã hội và các hành vi vi phạm pháp luật khác nên cần có hình phạt tương xứng với tính chất mức độ tội phạm.

[4] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có xem xét bị cáo N không có tình tiết tăng nặng, mà có các tình tiết giảm nhẹ như: Bị cáo Lê Hồng N có nhân thân tốt, ngoài lần phạm tội này bị cáo không có hành vi vi phạm pháp luật nào khác, bị cáo thật sự biết ăn năn hối cải, thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình và có đơn tố giác, cung cấp thông tin đối tượng tàng trữ trái phép chất ma túy góp phần giúp cơ quan điều tra công an huyện T phát hiện bắt và khởi tố một đối tượng về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo có rất nhiều người thân là ông N2, ông bà N3, Cậu ruột, ông N2 (của chồng) là người có công được tặng thưởng nhiều Huân chương kháng chiến hạng nhất được quy định tại điểm s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Từ đó, Hội đồng xét xử có xem xét đầy đủ hành vi, tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ để giảm nhẹ hơn phần hình phạt so với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là cũng đủ để giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt và thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với bị cáo lầm lỗi đã thật sự biết ăn năn hối cải.

[5] Về hình phạt bổ sung: Qua xem xét điều kiện, hoàn cảnh của bị cáo N thấy rằng bị cáo không có nguồn thu nhập ổn định, không có hưởng lợi chênh lệch từ hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo như đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.

[6] Xử lý vật chứng: Đối với 01 phong bì hoàn mẫu được niêm phong của Phòng K1 Công an tỉnh C số 308/KL-KTHS ngày 04/7/2023, tên mẫu: phong bì hình chữ nhật ký hiệu M20/2023, 01 đĩa sứ tròn, màu trắng, ký hiệu M20/2023; 01 thẻ nhựa màu vàng có dòng chữ “LOUIS VUITTON”; 01 bọc nilon màu trắng; 02 thẻ sim: sim 1 số 09355031xx, sim 2 số 09456161xx không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy; đối với 01 tờ tiền VNĐ mệnh giá 1.000 đồng và 01 tờ tiền VNĐ mệnh giá 10.000 đồng được cuộn tròn thành ống hút của các đối tượng sử dụng ma túy, 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh, bị vỡ màng hình của bị cáo N liên quan đến vụ án có giá trị sử dụng nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.

[7] Đối với Phan Minh T4, Nguyễn Văn B1, Trần Thế H1, Huỳnh Đ1 đều là người nghiện ma túy nên cùng nhau góp tiền thuê phòng và mua ma túy để sử dụng.. Khi bắt quả tang ma túy bị thu giữ có khối lượng 0,0318 gam, loại Ketamine không đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự T4, B1, H1, Đ1. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với T4, Bé, H1, Đ1 về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là có căn cứ.

[8] Đối với người thanh niên bán ma túy cho T4, do không xác định được thông tin nên chưa có căn cứ xử lý. Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh và xử lý sau là phù hợp.

[9] Quán K do ông Lê Hoàng T là cha của bị cáo N đăng ký kinh doanh nhưng ông T đã giao cho bị cáo N trực tiếp quản lý kinh doanh khoảng 06 năm. Ngày 29/6/2023, bị cáo N cho T4, B1, H1 và ĐI thuê phòng để sử dụng ma túy ông T không hay biết nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T không xử lý ông T là có căn cứ.

[10] Về án phí: Bị cáo Lê Hồng N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự:

Về điều luật: Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 256; điểm s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Lê Hồng N phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Lê Hồng N 04 (bốn) năm 04 (bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ ngày 30/6/2023.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì hoàn mẫu được niêm phong của Phòng K1 Công an tỉnh c số 308/KL-KTHS ngày 04/7/2023, tên mẫu: phong bì hình chữ nhật ký hiệu M20/2023, 01 đĩa sứ tròn, màu trắng, ký hiệu M20/2023; 01 thẻ nhựa màu vàng có dòng chữ “LOUIS VUITTON”; 01 vỏ đầu lọc thuốc lá màu vàng; 01 bọc nilon màu trắng; 02 thẻ sim: sim 1 số 09355031xx, sim 2 số 09456161xx.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 tờ tiền VNĐ mệnh giá 1.000 đồng; 01 tờ tiền VNĐ mệnh giá 10.000 đồng được cuộn tròn; 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh, màng hình bị vỡ.

(theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/01/2024 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thới Bình).

3. Về án phí: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo Lê Hồng N phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy số 04/2024/HS-ST

Số hiệu:04/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thới Bình - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về