Bản án về tội chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có số 160/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 160/2022/HS-PT NGÀY 10/08/2022 VỀ TỘI CHỨA CHẤP TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 10 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 111/2022/TLPT-HS ngày 02 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo Trương Tuấn A, Trần Ngọc Ẩ, Dương Văn T, do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 19/2022/HS-ST ngày 22 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang.

Các bị cáo có kháng cáo:

1. Trương Tuấn A (tên gọi khác PĐ), sinh năm 1988; Nơi cư trú: không xác định; ĐKTT: 20/44 NCT, phường VT, thành phố RG, tỉnh Kiên Giang; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ học vấn: 6/12; con ông Trương Hữu Trí (không xác định) và bà Huỳnh Thị Ba (chết); Vợ: Nguyễn Quỳnh Như, sinh năm 1996.

Tiền sự: không. Tiền án: 02 tiền án:

+ Ngày 29/12/2010 Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá xử phạt 04 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo Bản án số 193/2010/HS-ST, chấp hành xong bản án ngày 08/5/2014, đã được xóa án tích.

+ Ngày 28/11/2018 Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo Bản án số 207/2018/HS-ST. Đã chấp hành xong hình phạt tù nhưng chưa thi hành án phí và chưa nộp lại số tiền 1.500.000 đồng, chưa được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 19/01/2021 đến ngày 06/8/2021 được thay thế biện pháp tạm giam bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Ngày 1 13/4/2022 bị tạm giữ đến ngày 16/4/2022 chuyển tạm giam cho đến nay (Có mặt tại phiên tòa).

2. Trần Ngọc Ẩ (tên gọi khác G; sinh năm 1982; Nơi cư trú: ấp ĐNA, xã TĐ, huyện TH, tỉnh Kiên Giang; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ học vấn: 6/12; con ông Trần Minh Trượng (chết) và bà Đặng Thị Ánh (chết); vợ: Nguyễn Thị Hạnh (chết); con: 02 người, lớn nhất sinh năm 2003, nhỏ nhất sinh năm 2004. Tiền án, tiền sự: không; bị cáo được tại ngoại (Có mặt tại phiên tòa).

3. Dương Văn Tp (tên gọi khác BT); sinh năm 1967. Nơi cư trú: ấp ĐNB, xã TĐ, huyện TH, tỉnh Kiên Giang; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Tin Lành; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 8/12; con ông Dương Văn Sen (chết) và bà Lê Thị Liếu (chết); vợ: Phạm Hồng Sơn, sinh năm 1970; con: 03 người, lớn nhất sinh năm 1997, nhỏ nhất sinh năm 2010. Tiền án, tiền sự: không; bị cáo được tại ngoại (Có mặt tại phiên tòa).

- Ngoài ra trong vụ án còn có các bị cáo Bùi Minh T, Nguyễn Minh D, Lê Quốc T, Lê Long T và Nguyễn Minh Đ do không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị nên không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ tháng 9/2020 đến tháng 01/2021, các bị cáo gồm: Nguyễn Minh Đ; Nguyễn Văn D; Bùi Minh T; Lê Quốc T; Lê Long Tr; Trần Ngọc Ẩ (Gấm); Dương Văn T (BT); Trương Tuấn A (PĐ) đã thực hiện nhiều hành vi trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trên địa bàn huyện Tân Hiệp. Các bị cáo không bàn bạc trước mà sẽ có một hoặc hai người trong nhóm đi khảo sát và tìm kiếm cây mai để trộm, sau đó đến khoảng 22 giờ trở đi thì cả nhóm cùng đi trộm cắp tài sản sau đó về bán lại và cùng nhau tiêu xài cá nhân hoặc mua ma túy để sử dụng chung. Quá trình điều tra, các bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 00 giờ ngày 10/9/2020, tại nhà Nguyễn Minh Đ (do D, T thường xuyên ngủ tại nhà Đ, Nguyễn Văn D rủ Lê Quốc T đi trộm cắp mai vàng bán lấy tiền tiêu xài cá nhân thì được T đồng ý, D sử dụng xe loại Ware màu xanh đen, số máy VPKL1P50FMG890616 (xe không có bửng tr ước, không có bửng sau; không có đầu đèn xe, không có biển số, không có giấy tờ xe) của Bùi Minh T chở Lê Quốc T đi từ nhà Đ đến nhà ông Trần Văn M (Hai Thu) để trộm 01 (một) cây mai vàng. T trèo vào hàng rào lưới B40 phía bên hông hàng rào dùng tay lắc và trộm cắp 01 (một) cây mai vàng có đặc điểm hoành thân lớn nhất 43cm, chiều cao 89cm trồng trong chậu (không lấy cái chậu) của ông M rồi chuyển cây mai ra ngoài cho D. Sau đó D ôm ra xe và chở T ngồi phía sau ôm cây mai mang về nhà Dương Văn T (BT) và mang cây mai ra để sau vườn vào khoảng 03 giờ sáng ngày 11/9/2020, dù biết được cây mai T bán là tài sản do hành vi trộm cắp có được nhưng T đồng ý mua và đưa trước 500.000 đồng. Qua ngày hôm sau, T thỏa thuận và bán cho T cây mai trên với giá 3.000.000đ (ba triệu đồng) và trả tiền nhiều lần, số tiền thu lợi bất chính, T cùng các bị cáo T, Đ, Tr, D tiêu xài cá nhân và mua ma túy để sử dụng chung (T, Đ, Tr không hay biết việc D, T đi trộm cắp cây mai cùa ông M).

Vụ thứ hai: Khoảng 23 giờ ngày 20/9/2020, tại nhà Nguyễn Minh Đ, Lê Long Tr, Bùi Minh T, Nguyễn Minh Đ và Lê Quốc T rủ nhau đi tìm mai trên đoạn tuyến Kinh 6, thuộc xã Thạnh Đông để trộm, tất cả đồng ý. T chở Đ bằng xe loại Ware màu xanh đen, số máy VPKL1P50FMG890616 (xe không có bửng trước, không có bửng sau; không có đầu đèn xe, không có biển số, không có giấy tờ xe) của T. T chạy xe mô tô nhãn hiệu Holder, biển kiểm soát 68T1-xxxxx của Tr, còn Tr thì ở lại nhà Đ. Khi đi đến nhà ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1948, ngụ số nhà 341, tổ 14, ấp Đá Nổi A, xã Thạnh Đông, huyện Tân Hiệp thì phát hiện 01 (một) cây mai vàng có hoành thân lớn nhất 45cm, chiều cao 174cm trồng dưới đất trước cửa nhà ông K thì T nhổ cây mai nhưng không được nên cả ba bỏ đi tiếp tục tìm cây mai khác để trộm nhưng không có. Sau đó, T và Đ quay lại nhà ông K để nhổ cây mai lên, cả hai cùng mang ra khỏi hàng rào nhà ông K và để cặp mé sông trước cửa nhà ông K rồi quay về nhà Đ để kêu Tr và T tìm cách chở cây mai về. T điện thoại cho Dương Văn T và nói với T là có lấy được cây mai gần nhà bác sỹ Hùng (gần nhà ông T) nhưng không chở xe máy được nên kêu T lấy xe kéo nước đá hàng ngày là loại xe có 01 xe mô tô có số khung VTLBCH023TL020757 không có biển số có gắn theo sau 01 chiếc xe kéo hai bánh loại xe tự chế thùng bằng khung sắt và cây, kích thước 0,9 x 2m để chở cây mai về nhà. Mục đích của các bị cáo kêu T chở cây mai về nhà là để bán cây mai cho T. T đồng ý và chạy xe kéo xuống nhà ông K, tại đây, T và Tr từ nhà Đ chạy xe mô tô nhãn hiệu Holder, biển kiểm soát 68T1-xxxxx của Tr xuống nhà ông K. T, Tr, T cùng nhau khiêng cây mai lên xe kéo của T, T điều khiển xe, T ngồi phía sau thùng xe giữ cây mai không cho rơi xuống đất, Tr chạy xe theo phía sau. Đến khoảng 03 giờ ngày 21/9/2020, T, Tr, T chở cây mai đến nhà bà Phạm Hồng Quý (tên gọi khác là Bé Tám, em vợ của T đã đi nước ngoài giao nhà cho T trông coi) cả ba cùng khiêng cây mai ra sau nhà trồng. Qua ngày hôm sau, T và Đ thỏa thuận bán cây mai cho T với giá 2.000.000đ, T trả tiền nhiều lần cho T và T. Tr, T, Đ, T cùng sử dụng để tiêu xài cá nhân và mua ma túy sử dụng chung.

Vụ thứ ba: Khoảng 00 giờ ngày 11/10/2020, do đã có đi thăm dò trước nên Nguyễn Văn D cùng Lê Long Tr đến nhà bà Lê Thị Thu Hà để lấy trộm mai mà D đã phát hiện trước đó. Tr điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Holder, biển kiểm soát 68T1-xxxxx của Tr và chở D. Khi đến nhà bà Hà, D và Tr đi vào trong sân cùng nhau lắc cây mai ra khỏi đất để lấy trộm được 01 (một) cây mai vàng có hoành thân lớn nhất 43cm, chiều cao 148cm nhổ cây mai ra khỏi chậu và mang ra xe. D điều khiển xe chở Tr ngồi phía sau giữ cây mai và mang về nhà Đ trồng phía sau vườn. Khi Đ thức dậy nhìn thấy cây mai thì Tr và D nói cho Đ biết mới lấy trộm được đêm qua, Đ đồng ý để cây mai trồng trong phần đất nhà Đ. Sau đó Đ đến nhà Ẩ nhờ kiếm người mua mai để bán. Khoảng 05 ngày sau, Trần Ngọc Ẩ dẫn Phạm Nguyễn Tuấn Kiệt, sinh năm 1995, ngụ ấp Kinh 2A, xã Tân Hiệp A, huyện Tân Hiệp đến nhà Đ để giới thiệu bán 02 (hai) cây mai trồng phía sau nhà Đ với giá 8.000.000 đồng (tám triệu đồng), trong đó có cây mai của bà Hà mà D và Tr lấy trộm. Lúc này Đ cũng có mặt, sau khi bán xong, Ẩ nhận tiền từ Kiệt và đưa cho Đ 7.000.000đ, số tiền này D, Đ, Tr, T tiêu xài cá nhân. Ẩ nhận được 1.000.000đ là tiền hoa hồng Ẩ giới thiệu để bán cây mai nhưng không biết là mai do trộm cắp mà có. Sau khi mua được cây mai, Kiệt đem về gửi tại nhà anh Phạm Văn Cảnh, sinh năm 1975, ngụ ấp Kinh 2A, xã Tân Hiệp A, huyện Tân Hiệp. Anh Cảnh thấy nghi vấn về nguồn gốc cây mai Kiệt gửi nên đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra.

Vụ thứ tư: Khoảng 23 giờ ngày 19/10/2020, tại nhà Đ, các bị cáo Bùi Minh T, Nguyễn Văn D, Lê Long Tr và Lê Quốc T cùng rủ nhau đến nhà ông Nguyễn Tấn L, ngụ ấp Tân Thạnh, xã Thạnh Đông, huyện Tân Hiệp để trộm cây mai mà T và T đi tìm kiếm trước đó. T, D, Tr, Tín sử dụng chiếc xe Ware màu xanh đen, không biển kiểm soát của T và xe mô tô nhãn hiệu Holder, biển kiểm soát 68T1-xxxxx của Tr đi đến địa điểm trộm mai. Khi đến trước cửa nhà ông L gặp 01 cây mai vàng trồng dưới đất có đặc điểm hoành thân nơi lớn nhất là 52cm, chiều cao thân là 66cm, xung quanh có xây gạch vòng quanh cây, T và D đi vào lắc cây mai nhổ lên và ôm cây mai ra xe. D chạy xe của T chở T ngồi sau giữ cây mai chạy về hướng Kinh 9 thuộc khu vực xã Thạnh Đông, Tân Hiệp đi được một đoạn thì thấy xe ngược chiều nên quăng cây mai xuống đám cỏ cất giấu để tránh bị phát hiện. Sau đó, T, Tr, T, D chạy về nhà Đ. Đến khoảng 03 giờ ngày 20/10/2020, Trg và T quay lại để lấy cây mai mang về nhà Trần Ngọc Ẩ để đưa cho Ẩ bán dùm, Ẩ biết được cây mai là tài sản do hành vi trộm cắp có được nhưng đồng ý và mang cây mai vào để trong nhà sau. Đến ngày 24/10/2020, Ẩ chưa bán được mai thì Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Hiệp đã thu giữ được cây mai tại nhà Ẩn.

Vụ thứ năm: Khoảng 22 giờ ngày 23/10/2020, Bùi Minh T rủ Nguyễn Văn D và Lê Long Tr đi lấy trộm 04 (bốn) cái chậu loại chậu sành có hình rồng mà Thuận nhìn thấy trước đó của ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1965, ngụ ấp Đá Nổi A, xã Thạnh Đông, huyện Tân Hiệp thì D và Tr đồng ý. Sau đó, T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Holder, biển kiểm soát 68T1-xxxxx của Tr chở D. Tr chạy xe Ware màu xanh đen, không biển kiểm soát của T chạy đến gần nhà ông T. D đổ đất trong chậu ra và trực tiếp lấy lần lượt 02 (hai) chậu sành hình rồng rồi Tr chạy xe lại cùng T và Dg khiêng hai chậu D vừa trộm được lên xe của T, đặt lên cảng bằng sắt có gắn thêm ở yên sau dùng để chở đồ.

Do trước đó tại nhà mình, Trần Ngọc Ẩ có trao đổi với Bùi Minh T là nếu đi lấy trộm được các chậu bông có hình Rồng, đường kính khoảng 50cm đến 60cm, không bị nứt, mẻ thì đem lại bán cho Ẩ với giá dao động từ 500.000đ đến 600.000đ một cái. Do đó, sau khi lấy trộm tài sản, khoảng 01 giờ ngày 24/10/2021, Tr chở hai chậu đến nhà Trần Ngọc Ẩ, còn T và D chạy xe về nhà Đ. Sau đó, D chạy theo Tr đến nhà Ẩ và tự mở cửa vào (do D thường đến nhà Ẩ nên biết cách tự mở cửa vào) khiêng hai chậu để trong nhà sau của Ẩ. D và Tr mỗi người điều khiển một chiếc xe quay lại nhà ông T để tiếp tục trộm 02 (hai) chậu còn lại.

Tr quay xe lại nhà Đ để rước T đến nhà ông T, cả hai ngồi ở ngoài đợi, D tiếp tục vào sân nhà ông T lần lượt lấy 02 (hai) chậu còn lại ra để ngoài mé lộ trước cửa nhà ông T. Cả ba bị cáo khiêng lên xe của T, Tr điều khiển xe về nhà Ẩ, D chở T chạy theo sau. Khi đến nhà Ẩ, D tự mở cửa vào nhà khiêng hai cái chậu để vào nhà sau cùng vị trí với hai cái chậu đã trộm trước đó. Lúc này Ẩ thức dậy và nói với T ngày mai sẽ có người đến mua rồi báo giá sau. Sau đó, T, Tr, D về nhà Đ ngủ. Đến 12 giờ ngày 24/10/2020, Cơ quan Công an tiến hành tạm giữ 04 (bốn) chậu sành các bị cáo đã trộm do Trần Ngọc Ẩ tự nguyện giao nộp.

Vụ thứ sáu: Khoảng 01 giờ ngày 03/01/2021, Trương Tuấn A sử dụng xe mô tô hiệu Sirius màu đỏ, đen, xe có gắn biển kiểm soát 68C1-xxxxx chở Nguyễn Nhật H (CĐ), sinh ngày 06/4/2005, ngụ ấp Đập Đá, xã Tân Hội, huyện Tân Hiệp đi từ nhà nghỉ Gia Hân, thuộc xã Bàn Tân Định, huyện Giồng Riềng về nhà H. Khi đi qua bến đò Kinh 5 tới nhà anh Nguyễn Văn Lt, sinh năm 1986, ngụ ấp Tân Quới, xã Tân Hiệp A, huyện Tân Hiệp, Kiên Giang thì cả hai thấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda AIRBLADE màu trắng, đen, đỏ, biển kiểm soát 68T1-xxxxx do anh Nguyễn Thành N, sinh năm 1960, ngụ khu phố Đông An, thị trấn Tân Hiệp, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang đang sử dụng (chủ sở hữu là anh Nguyễn Hoàng V, sinh năm 1982, ngụ ấp Tân Quới, xã Tân Hiệp A, huyện Tân Hiệp - anh ruột của N), nên Tuấn A nảy sinh ý định lấy trộm và rủ H trộm cắp tài sản, được H đồng ý.

Tuấn A quay đầu xe lại cho H xuống xe, H đi vào trong sân nhà anh L quan sát không có người trông coi nên dắt chiếc xe ra ngoài lộ và điều khiển xe. Do xe không có chìa khóa nên Tuấn A dùng xe mô tô Sirius đang sử dụng đẩy chiếc xe H điều khiển đi về hướng Kinh 5A. Khi đi đến phần đất trống không có người, Tuấn A bứt dây max điện và khởi động được xe để H điều khiển và chạy về ấp Đập Đá, xã Tân Hội, huyện Tân Hiệp.

Tuấn A gặp Lê Văn Linh, sinh năm 1994, ngụ cùng ấp để nhờ cầm dùm chiếc xe và nói với Linh là xe của Tuấn A, giấy tờ vợ của Tuấn A đang giữ nên Linh đồng ý. Linh lấy xe chạy về nhà Danh Vui, sinh năm 1998, ngụ ấp Sóc Cung, xã Phi Thông, Thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang để nhờ Vui cầm xe dùm. Danh Vui đi cùng bạn là Hà Mỹ Dình, sinh năm 1995, ngụ khu phố Dĩ Ốc, phường Vĩnh Hiệp, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang cùng đi đến nhà Đặng Minh Sang, sinh năm 1983, ngụ phường Vĩnh Thanh, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Vui làm giấy tay bán xe cho Đặng Minh Sang với giá 5.000.000 đồng, thỏa thuận với Sang khi nào đem giấy tờ xe ra sẽ đưa thêm 2.000.000 đồng. Khi về gặp Linh, Vui nói cầm xe được 2.000.000 đồng và đưa cho Linh 1.800.000 đồng (một triệu tám trăm nghìn đồng), Linh đưa tiền cho Tuấn A nhưng Tuấn A không đồng ý và yêu cầu chuộc xe lại nhưng Linh không chuộc được. Đến ngày 05/01/2021, Đặng Minh Sang đã giao nộp chiếc xe trên cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Hiệp để phục vụ công tác điều tra (Danh Vui, Hà Mỹ Dình và Đặng Minh Sang không biết nguồn gốc xe trộm cắp mà có).

Vụ thứ bảy: Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 18/01/2021, Trương Tuấn A sử dụng xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ, đen, xe có gắn biển kiểm soát 68C1-xxxxx trên đường chở Bùi Minh T về nhà và đi ngang qua vựa gà Yến Long của chị Nguyễn Thị Kim Yến tại ấp Kinh 9A, xã Thạnh Đông, Tân Hiệp, Kiên Giang thì phát hiện chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe WAVE RSX màu đỏ, đen, biển kiểm soát 68T1-xxxxx đậu trước cửa vựa gà có gắn sẵn chìa khóa trên ổ khóa xe. Lúc này Tuấn A nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe và rủ T cùng lấy trộm. Tuấn A chạy xe qua lại khoảng hai, ba vòng trước vựa gà để quan sát, thấy không có người trông giữ thì T đi vào dắt chiếc xe của chị Yến ra đường và khởi động xe chạy về hướng huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang. Đến 15 giờ cùng ngày, Tuấn A đem xe lấy trộm đến tiệm cầm đồ của Trần Văn Lợi thuộc ấp Bờ Xáng, x ã Thạnh Bình, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang cầm được 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng). Số tiền cầm xe trộm cắp có được, Tuấn A đưa cho T 2.000.000 đồng, còn lại 13.000.000 đồng Tuấn A tiêu xài cá nhân. Xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ, đen, có gắn biển kiểm soát 68C1-xxxxx Tuấn A sử dụng bị Công an xã Thạnh Phước, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang tạm giữ do vi phạm quy định khi tham gia giao thông, tang vật đã được giao lại cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Tân Hiệp để phục vụ công tác điều tra.

* Cơ quan điều tra đã tiến hành trích xuất 02 (hai) đoạn camera ghi hình các đối tượng lấy trộm tài sản trong ngày 03/01/2021 tại ấp Tân Quới, xã Tân Hiệp A, huyện Tân Hiệp, Kiên Giang và ngày 18/01/2021 tại ấp Kinh 9A, xã Thạnh Đông, Tân Hiệp, Kiên Giang. Qua quá trình xác minh, nhận dạng đối tượng, Trương Tuấn Anh và Bùi Minh Thuận đã khai nhận toàn bộ hành vi lấy trộm tài sản của mình đối với hai vụ án trên.

- Kết luận định giá số 36/KL-HĐĐGTS ngày 16/12/2020 kết luận giá trị tại thời điểm xảy ra vụ án ngày 10/9/2020: 01 (một) cây mai vàng có hoành thân lớn nhất 43cm, chiều cao 89cm, có giá trị tương ứng trên thị trường là 4.000.000 đồng/cây. Tổng giá trị tài sản cần định giá là 4.000.000đ (Bốn triệu đồng).

- Kết luận định giá số 35/KL-HĐĐGTS ngày 16/12/2020 kết luận giá trị tại thời điểm xảy ra vụ án ngày 20/9/2020: 01 (một) cây mai vàng có hoành thân lớn nhất 45cm, chiều cao 174cm, có giá trị tương ứng trên thị trường là 7.000.000 đồng/cây. Tổng giá trị tài sản cần định giá là 7.000.000đ (Bảy triệu đồng).

- Kết luận định giá số 38/KL-HĐĐGTS ngày 16/12/2020 kết luận giá trị tại thời điểm xảy ra vụ án ngày 11/10/2020: 01 (một) cây mai vàng có hoành thân lớn nhất 43cm, chiều cao 148cm, có giá trị tương ứng trên thị trường là 4.000.000 đồng/cây. Tổng giá trị tài sản cần định giá là 4.000.000đ (bốn triệu đồng).

- Kết luận định giá số 37/KL-HĐĐGTS ngày 16/12/2020 kết luận giá trị tại thời điểm xảy ra vụ án ngày 19/10/2020: 01 (một) cây mai vàng có hoành thân lớn nhất 52cm, chiều cao 66cm, có giá trị tương ứng trên thị trường là 5.000.000 đồng/cây. Tổng giá trị tài sản cần định giá là 5.000.000đ (Năm triệu đồng).

- Kết luận định giá tài sản số 32/KL-HĐĐGTS ngày 23/11/2020, kết luận:

giá thị trường tại thời điểm xảy ra vụ án ngày 24/10/2020 như sau:

+ 03 (ba) cái chậu bằng sành, màu xanh hình rồng, chiều cao 35cm, đường kính miệng 60cm, có giá trên thị trường là 1.500.000 đồng x 3 = 4.500.000 đồng.

+ 01 (một) cái chậu bằng sành, màu xanh hình rồng, chiều cao 35cm, đường kính miệng 50cm, có giá trên thị trường là 1.000.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản cần định giá là 5.500.000đ (Năm triệu năm trăm nghìn đồng).

- Kết luận định giá tài sản số 01/2021/KL-HĐĐGTS ngày 21/01/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang, kết luận: giá thị trường tại thời điểm xảy ra vụ án ngày 03/01/2021 như sau: 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại AIRBLADE màu đen, trắng, đỏ, số mày JA36EO884594, số khung RLHJA3651LY018146, biển kiểm soát 68T1-xxxxx.

Tổng giá trị tài sản cần định giá: 12.000.000đ (mười hai triệu đồng).

- Kết luận định giá tài sản số 02/2021/KL-HĐGTS ngày 21/01/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang, kết luận: giá thị trường tại thời điểm xảy ra vụ án ngày 18/01/2021 như sau: 01 (một) chiếc xe mô nhãn hiệu Honda, loại xe WAVE RSX FI màu đỏ, đen, số máy JA52E0193482, số khung RLHJA3850LY046775, biển kiểm soát 68T1-xxxxx.

Tổng giá trị tài sản cần định giá là 15.000.000đ (Mười lăm triệu đồng).

* Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 19/2022/HS-ST, ngày 22 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Trương Tuấn A phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Bị cáo Trần Ngọc Ẩ phạm tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” và Dương Văn T phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; khoản 1 Điều 17; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 38; khoản 1 Điều 56 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Trương Tuấn A 02 (hai) năm tù.

Hình phạt của Bản án trước số 61/2021/HS-ST ngày 15/10/2021 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang, bị cáo phải chấp hành là 09 (chín) tháng tù.

Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Trương Tuấn A phải chấp hành hình phạt của 02 bản án là 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù, được khấu trừ thời gian bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 19/01/2021 đến ngày 06/8/2021, thời hạn tù được tính kể từ ngày bị cáo bị tạm giữ ngày 13/4/2022.

- Áp dụng: khoản 1 Điều 173; khoản 1 Điều 17; Điều 38; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt: Bị cáo Trần Ngọc Ẩ 06 (sáu) tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng: khoản 1 Điều 323; Điều 38; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Ngọc Ẩ 06 (sáu) tháng tù, về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Ẩ phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính kể từ ngày bị cáo vào chấp hành án.

- Áp dụng: khoản 1 Điều 323; Điều 38; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Dương Văn T 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính kể từ ngày bị cáo vào chấp hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn xử phạt các bị cáo Bùi Minh T 02 năm tù, Nguyễn Văn D 01 năm 06 tháng tù, Lê Quốc T 01 năm tù, Lê Long Tr 06 tháng tù và Nguyễn Minh Đ 01 năm 03 tháng tù; quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và báo quyền kháng cáo theo quy định.

Ngày 25/4/2022, bị cáo Trương Tuấn A có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm hình phạt.

Ngày 04/5/2022 bị cáo Trần Ngọc Ẩ có đơn kháng cáo nội dung xin được hưởng án treo.

Ngày 04/5/2022 bị cáo Dương Văn T có đơn kháng cáo nội dung xin được giảm nhẹ hình phạt Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Các bị cáo Trương Tuấn A, Trần Ngọc Ẩ, Dương Văn T thừa nhận bản án sơ thẩm xét xử đúng hành vi các bị cáo đã thực hiện.

- Bị cáo Trương Tuấn A có ý kiến rút toàn bộ yêu cầu kháng cáo.

- Bị cáo Trần Ngọc Ẩ và Dương Văn T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát có ý kiến: Đề nghị căn cứ khoản 1 Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Trương Tuấn A; căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Ngọc Ẩ và Dương Văn T, giữ nguyên bản án sơ thẩm đối với hai bị cáo Ẩn và Thép.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo:

Xét đơn kháng cáo của các bị cáo Trương Tuấn A, Trần Ngọc Ẩ và Dương Văn T về nội dung, quyền kháng cáo, thủ tục kháng cáo và thời hạn kháng cáo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về quyết định của bản án sơ thẩm:

Trong khoảng tháng 9/2020 đến tháng 01/2021, do muốn có tiền tiêu xài và sử dụng ma túy, các bị cáo Bùi Minh T, Nguyễn Văn D, Lê Quốc T, Lê Long Tr, Nguyễn Minh Đ, Dương Văn T, Trần Ngọc Ẩ, Trương Tuấn A đã nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản và chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, cụ thể:

- Ngày 10/9/2020, bị cáo Nguyễn Văn D và bị cáo Lê Quốc T trộm cắp 01 cây mai của ông Trần Văn M đem bán cho bị cáo Dương Văn T đi tiêu thụ, tài sản trị giá là 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng).

- Ngày 20/9/2020, các bị cáo Lê Long Tr, Bùi Minh T, Nguyễn Minh Đ và Lê Quốc T trộm cắp 01 cây mai của ông Nguyễn Văn K đem bán cho bị cáo Dương Văn T đi tiêu thụ, tài sản trị giá là 7.000.000đ (Bảy triệu đồng).

- Ngày 11/10/2020, bị cáo Nguyễn Văn D và bị cáo Lê Long Tr trộm cắp 01 cây mai của bà Lê Thị Thu H đem đến đưa cho bị cáo Nguyễn Minh Đ đi tiêu thụ tài sản, tài sản có giá trị 4.000.000đ (bốn triệu đồng).

- Ngày 19/10/2020, các bị cáo Nguyễn Văn D, Lê Long Tr, Bùi Minh T, Lê Quốc T trộm cắp 01 cây mai của ông Nguyễn Tấn Li và đem đến nhà bị cáo Trần Ngọc Ẩ để chứa chấp tài sản, tài sản có giá trị là 5.000.000đ (năm triệu đồng).

- Khoảng 22 giờ ngày 23/10/20020 đến khoảng 01 giờ ngày 24/10/2020, các bị cáo Bùi Minh T, Nguyễn Văn D và Lê Long Tr trộm cắp 04 (bốn) chậu bông loại chậu sành có hình rồng của ông Nguyễn Văn T đem bán cho bị cáo Trần Ngọc Ẩ, tài sản có giá trị là 5.500.000đ (năm triệu năm trăm nghìn đồng).

- Ngày 03/01/2021, bị cáo Trương Tuấn A trộm cắp 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda AIRBLADE màu trắng, đen, đỏ, biển kiểm soát 68T1-xxxxx của anh Nguyễn Hoàng Vũ có giá trị 12.000.000đ (mười hai triệu đồng).

- Ngày 18/01/2021, bị cáo Trương Tuấn A và bị cáo Bùi Minh T trộm cắp tài sản của chị Nguyễn Thị Kim Y 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Wave RSX màu đỏ, đen, biển kiểm soát 68T1-xxxxx có giá trị 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng).

Như vậy, bị cáo Trương Tuấn A trộm cắp tài sản 02 lần có tổng giá trị là 27.000.000đ; bị cáo Trần Ngọc Ẩ trộm cắp tài sản 01 lần có giá trị là 5.500.000đ và chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có một lần với giá trị 5.000.000đ; bị cáo Dương Văn T tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có 02 lần tổng giá trị 11.000.000đ. Do đó, cấp sơ thẩm xét xử và kết án bị cáo Trương Tuấn A về tội“Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173; bị cáo Trần Ngọc Ầ về tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 173 và khoản 1 Điều 323; bị cáo Dương Văn T về tội “Tiêu thụ tài sàn do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[3] Về yêu cầu kháng cáo của các bị cáo:

- Đối với bị cáo Trương Tuấn A: Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Tuấn A có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt. Tuy nhiên tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo có ý kiến rút lại toàn bộ yêu cầu kháng cáo. Xét thấy, việc rút kháng cáo của bị cáo Tuấn Anh là tự nguyện, nên Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Tuấn A theo quy định tại khoản 1 Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Đối với bị cáo Trần Ngọc Ẩ: Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Ẩ có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo. Xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo, áp dụng đầy đủ tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo, quyết định mức án như bản án sơ thẩm đã tuyên đối bị cáo là tương xứng với vai trò, tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo trong vụ án. Mặt khác, bị cáo Ẩ cùng các bị cáo khác trong vụ án nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội, gây mất an ninh trật tự ở địa phương, gây bức xúc, bất bình đối với mọi người, cần phải xử lý nghiêm để cảnh tỉnh, răn đe chung. Nếu cho bị cáo hưởng án treo sẽ không có tác dụng đấu tranh phòng chống tội phạm. Do đó, kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Ẩ không có cơ sở để chấp nhận.

- Đối với bị cáo Dương Văn T: Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Thép có đơn kháng cáo xin được giảm hình phạt. Xét thấy, cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo, áp dụng đầy đủ tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng đối với bị cáo. Tuy nhiên, mức hình phạt 1 năm tù cấp sơ thẩm tuyên phạt đối bị cáo là có phần nghiêm khắc, bởi giá trị tài sản bị cáo tiêu thụ không lớn. Vì vậy, kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo Thép có cơ sở để chấp nhận.

Từ phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Tuấn A, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Ngọc Ẩ, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Dương Văn T, sửa bản án sơ thẩm giảm một phần hình phạt cho bị cáo T.

[4] Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Tuấn A rút kháng cáo; bị cáo T kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm; bị cáo Ẩ kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 348; điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Trương Tuấn A, Bản án hình sự sơ thẩm số: 19/2022/HS-ST ngày 22/4/2022 của Tòa án nhân dân huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang phần tuyên xử đối với bị cáo Trương Tuấn A có hiệu lực pháp luật kể từ ngày đình chỉ xét xử phúc thẩm.

- Không nhận kháng cáo của bị cáo Trần Ngọc Ẩ; chấp nhận kháng cáo của bị cáo Dương Văn T, sữa bản án hình sự sơ thẩm số: 19/2022/HS-ST ngày 22/4/2022 của Tòa án nhân dân huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang phần tuyên xử đối với bị cáo T.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Trần Ngọc Ẩ (tên gọi khác G 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

3. Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Trần Ngọc Ẩ (tên gọi khác G 6 (sáu) tháng tù về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Áp dụng khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Trần Ngọc Ẩ phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 01 (một) năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính kể từ ngày bị cáo vào chấp hành án.

4. Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Dương Văn T (tên gọi khác BT) 9 (chín) tháng tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính kể từ ngày bị cáo vào chấp hành án.

3. Về án phí, căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

- Các bị cáo Trương Tuấn A và Dương Văn T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

- Bị cáo Trần Ngọc Ẩ phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số: 19/2022/HS-ST ngày 22/4/2022 của Tòa án nhân dân huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có số 160/2022/HS-PT

Số hiệu:160/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về