Bản án về tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy số 58/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH GIANG - TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 58/2022/HS-ST NGÀY 23/08/2022 VỀ TỘI CHỨA CHẤP SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 8 năm 2022 tại Điểm cầu trung tâm Tòa án nhân dân huyện Bình Giang và điểm cầu thành phần Nhà tạm giữ Công an huyện Bình Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 48/2022/TLST-HS ngày 30 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2022/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 7 năm 2022 và Thông báo về việc tổ chức phiên tòa trực tuyến số 03/2022/TB-TA ngày 08 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

BÙI MẠNH H – Sinh năm 2001.

Nơi sinh: Xã MS, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.

Nơi cư trú: Thôn VM, xã MS, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/12.

Con ông Bùi Mạnh Th, sinh năm 1976 và bà Mạc Thanh B, sinh năm 1979. Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất.

Tiền án: Tiền sự: Không.

Nhân thân: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 184/2018/HS-ST ngày 24/9/2018, TAND thành phố Hải Dương xử phạt 09 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngày 28/3/2019, H chấp hành xong toàn bộ Bản án.

Tạm giữ: Không.

Tạm giam: Từ ngày 07/01/2022 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bình Giang.

Bị cáo có mặt tại điểm cầu thành phần.

* Tại điểm cầu trung tâm:

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Phạm Tiến H1 – Sinh năm 1996 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn V, xã C, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.

+ Anh Lưu Mạnh C – Sinh năm 1988 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Khu XĐ, phường TM, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.

- Người làm chứng:

+ Anh Phạm Khắc T – Sinh năm 2002 (Vắng mặt).

+ Anh Đỗ Văn L – Sinh năm 1993 (Vắng mặt).

+ Anh Đào Tùng L – Sinh năm 1995(Vắng mặt).

+ Anh Đỗ Trung M – Sinh năm 1987 (Vắng mặt).

+ Anh Đào Văn G – Sinh năm 1994 (Vắng mặt).

+ Anh Đỗ Quang Z – Sinh năm 1997(Vắng mặt).

+ Anh Trần Văn Tr – Sinh năm 1986 (Vắng mặt).

+ Anh Nguyễn Văn Đ – Sinh năm 1991 (Vắng mặt).

+ Anh Đỗ Văn S – Sinh năm 1994 (Vắng mặt).

+ Chị Tạ Thị O – Sinh năm 1998 (Vắng mặt).

+ Chị Nguyễn Thị P – Sinh năm 1995 (Vắng mặt).

+ Chị Triệu Thị T – Sinh năm 2003 (Vắng mặt).

+ Chị Hoàng Thị Tuyết M – Sinh năm 2001 (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tháng 9/2021, anh Phạm Tiến H1 thuê quán Karaoke TOP có địa chỉ tại thôn Cậy, xã Long Xuyên, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương của anh Phạm Anh Ch để kinh doanh (quán Karaoke TOP anh Ch có nhờ Bùi Văn D đứng tên kinh doanh và được Phòng tài chính kế hoạch huyện Bình Giang cấp đăng ký kinh doanh số 04J8001922 ngày 20/12/2019). Đến tháng 10/2021, anh Phạm Tiến H1 và chị Vương Thị Th (tên thường gọi là NA) thỏa thuận cùng nhau kinh doanh nhưng do tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp nên quán chưa hoạt động, chưa thỏa thuận về việc góp vốn, phân công công việc. Đến ngày 25/11/2021, Phạm Tiến H1 bị Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Cẩm Giàng khởi tố bị can, bắt tạm giam về tội Cố ý gây thương tích nên Phạm Tiến H1 giao lại quán cho chị Th để tiếp tục sửa chữa, hoàn thiện các thủ tục pháp lý cho quán. Th thuê Bùi Mạnh H quản lý, điều hành mọi hoạt động của quán với mức lương là 6.000.000đ/tháng.

Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 26/12/2021, Lưu Mạnh C đang ngồi chơi cùng Đỗ Trung M và Nguyễn Văn Đ tại nhà C tại khu dân cư XĐ, phường TM, thành phố Hải Dương. Lúc này, cả nhóm rủ nhau đi hát Karaoke và thống nhất rủ thêm Đào Văn G, Trần Văn Tr đi hát cùng. Sau đó, G gọi điện thoại rủ Đỗ Văn S và Tạ Thị O (là bạn của G) đi cùng, S và O đồng ý. C, M, Z, Đ, G, S thống nhất mỗi người góp 1.000.000đ cho C để C trả tiền thuê phòng hát và thuê nhân viên bấm bài. G gọi điện thoại nhờ Đỗ Văn L đặt thuê giúp cả nhóm phòng hát tại quán Karaoke TOP và điều một số nhân viên nữ bấm bài và hát cùng, L đồng ý. L gọi điện thoại cho Bùi Mạnh H đặt phòng hát rồi chở Triệu Thị T (tên gọi khác Nguyễn Thùy Dung) đến quán Karaoke TOP đợi nhóm của C và G đến hát.

Sau khi thống nhất và đặt được phòng phát, G, Z, S, Tạ Thị O đi xe taxi đến quán trước. C lấy áo khoác của mình bên trong có cất giấu 05 viên ma túy dạng kẹo và 02 túi ma túy Ketamine mặc vào người rồi cùng Đ, M đi xe taxi đến đón Tr đến quán sau (số ma túy do C mua ngày 24/12/2021 của một người nam thanh niên không quen biết tại khu công nghiệp G An, thành phố Hải Dương, mọi người đều không biết C giấu ma túy trong người). Khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, G, Z, S, Tạ Thị O đến nơi, H sắp xếp, dẫn mọi người vào phòng VIP5 đồng thời bảo Hoàng Thị Tuyết M (tên gọi khác Ngọc M) và Cà Thị O vào phòng VIP5 để phục vụ. Sau khi vào phòng hát, G gọi điện báo với Đào T L đến quán Karaoke TOP để đánh nhạc cho mọi người hát, L đồng ý. Khoảng 23 giờ cùng ngày, nhóm của C đến quán được H mở cửa, dẫn vào phòng VIP5, sau đó lần lượt L, Nguyễn Thị P và Lù Thị Kh đến vào hát cùng mọi người.

Khi mọi người đang hát, C tự bỏ 01 viên ma túy dạng kẹo ra sử dụng, còn lại 04 viên để trên mặt bàn, dùng bật lửa hơ nóng đĩa sứ có sẵn trên mặt bàn rồi đổ toàn bộ 02 túi ma túy Ke ra đĩa, dùng thẻ nhựa miết mịn số ma túy trên mặt đĩa, kẻ thành từng đường thẳng (xào ke), dùng tờ tiền Polime mệnh giá 10.0000đ quấn thành ống hút rồi tự mình sử dụng ma túy Ke bằng hình thức hít, sau đó ngồi ở ghế nhắm mặt nghe nhạc. Trong lúc C đang nhắm mắt, nghe nhạc thì L tự ý lấy 01 viên ma túy kẹo trên bàn sử dụng, M, L, Đạo, Z, Đ, Tr, Tạ Thị O tự ý bẻ một phần trong số 03 viên ma túy kẹo còn lại của C để sử dụng. Trong lúc phục vụ, Bùi Mạnh H thấy mọi người sử dụng ma túy và thấy trên mặt bàn có đĩa đựng ma túy nên cũng tự ý lấy sử dụng. Việc H cùng mọi người sử dụng ma túy C không biết.

Đến khoảng 02 giờ ngày 27/12/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Bình Giang phối hợp với Công an xã Long Xuyên kiểm tra, phát hiện, lập biên bản vụ việc và đưa toàn bộ những người có mặt tại quán vể trụ sở Công an huyện Bình Giang để xác minh, làm rõ. Xét nghiệm phát hiện chất ma túy đối với Bùi Mạnh H và những người trong phòng hát đều dương tính với ma túy loại Ketamine và MDMD. Trong quá trình kiểm tra, H tự giao nộp chiếc đĩa sứ và ống hút cuộn bằng tờ tiền Polymer 10.000đ, 01 đầu ghi hình Camera nhãn hiệu Ahua, 01 điện thoại Iphone XS Max lắp sim số 0332.693.X. Ngoài ra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Giang còn quản lý 01 màn hình máy tính nhãn hiệu BenQ, 01 máy vi tính nhãn hiệu Fractal.

Tại kết luận giám định số 100/KLGĐ-PC09 ngày 29/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Trên bề mặt đĩa sứ gửi đến giám định phát hiện chất ma túy loại Ketamine, lượng mẫu rất nhỏ nên không xác định được khối lượng. Trong ống hút được cuộn bằng tờ tiền Polymer gửi đến giám định phát hiện chất ma túy loại Ketamine, lượng mẫu rất nhỏ nên không xác định được khối lượng. Hoàn lại đối tượng giám định gồm 01 đĩa sứ, 01 ống hút cuộn bằng tờ tiền Polymer mệnh giá 10.000đ, 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật.

Ketamine nằm tại STT 35 – Danh mục III –Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Vật chứng của vụ án: 01 đĩa sứ, 01 ống hút cuộn bằng tờ tiền Polymer mệnh giá 10.000đ, 01 đầu ghi hình Camera, 01 điện thoại Iphone XS Max lắp sim số 0332.693.X, 01 màn hình máy tính, 01 máy vi tính hiện đã được Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Bình Giang đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Giang để xử lý trong giai đoạn xét xử và thi hành án.

Tại bản cáo trạng số 46/CT-VKS ngày 27/5/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo Bùi Mạnh H về tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 256 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Mạnh H thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình và xác định Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Giang truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như cáo trạng đã nêu là có căn cứ.

Tranh luận tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa trình bày quan điểm giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, hậu quả, điều kiện, nguyên nhân phạm tội, nhân thân của bị cáo. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi Mạnh H phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt chính: Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 256, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Bùi Mạnh H từ 07 năm 03 tháng đến 07 năm 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 07/01/2022.

Về hình phạt bổ sung: Không đề nghị áp dụng.

+ Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 46; điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu, sung quỹ nhà nước 01 ống hút cuộn bằng tờ tiền Polymer mệnh giá 10.000đ.

+ Trả lại anh Phạm Tiến H1 01 đầu ghi hình Camera, 01 màn hình máy tính, 01 máy vi tính và 01 đĩa sứ.

+ Trả lại bị cáo Bùi Mạnh H 01 điện thoại Iphone XS Max lắp sim số 0332.693.X.

+ Tịch thu, tiêu hủy 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật, là mẫu vật hoàn lại sai giám định.

Về án phí: Đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo Bùi Mạnh H phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Tại lời nói sau cùng, bị cáo thể hiện thái độ ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Giang; Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Giang; Điều tra viên; Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố; điều tra viên, kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc kM nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo Bùi Mạnh H:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai của chính bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai của người liên quan, người làm chứng; phù hợp với biên bản vụ việc, kết quả khám xét, kết luận giám định, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Từ những chứng cứ nêu trên, có đủ cơ sở để kết luận:

Trong khoảng thời gian từ 22 giờ 30 phút ngày 26/12/2021 đến 02 giờ ngày 27/12/2021 tại quán Karaoke TOP ở thôn Cậy, xã Long Xuyên, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, Bùi Mạnh H là người được giao quản lý quán Karaoke TOP có hành vi cho Lưu Mạnh C cùng 14 người thuê phòng hát VIP5 và sử dụng trái phép chất ma túy thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Bình Giang phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; nhận thức rõ tác hại của chất ma túy đối với xã hội và hành vi sử dụng địa điểm do mình quản lý để cho người khác sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật và gây S quả nguy hiểm cho xã hội nhưng bị cáo vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma túy, gây mất trật tự an toàn xã hội. Quá trình điều tra xác định, mặc dù ban đầu bị cáo cho khách thuê phòng để hát Karaoke nhưng khi bị cáo lên vào phòng và phát hiện các đối tượng đang sử dụng trái phép chất ma túy, bị cáo không ngăn cản mà để mặc cho nhiều đối tượng sử dụng ma túy trong phòng hát do mình được giao quản lý đồng thời bị cáo cũng sử dụng ma túy do vậy hành vi của bị cáo thực hiện đã cấu thành tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung phạm tội “đối với 02 người trở lên” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 256 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Giang truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân: Bị cáo từng bị kết án về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy đã được xóa án tích.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[4] Về hình phạt: Căn cứ quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo H phạm tội rất nghiêm trọng thể hiện ý thức coi thường pháp luật do vậy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn mới đảm bảo tác dụng giáo dục bị cáo cũng như phòng ngừa chung trong xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 ống hút cuộn bằng tờ tiền Polymer mệnh giá 10.000đ là công cụ các đối tượng dùng để sử dụng ma túy nên cần tịch thu, sung quỹ nhà nước Đối với 01 đầu ghi hình Camera, 01 màn hình máy tính, 01 máy vi tính và 01 đĩa sứ là tài sản của quán Karaoke TOP do anh Phạm Tiến H1 và chị Vương Thị Th là chủ, tại thời điểm xảy ra vụ án, anh H1 và chị T2 không biết việc phạm tội nên cần trả lại các tài sản trên cho anh H1 là chủ sở hữu hợp pháp.

Đối với 01 điện thoại Iphone XS Max lắp sim số 0332.693.X thu giữ của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo chiếc điện thoại nêu trên.

Đối với 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật được hoàn lại sau giám định là vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

[7] Về các vấn đề khác: Đối với nam thanh niên bán ma túy cho Lưu Mạnh C, đến nay không xác định được là ai, ở đâu nên không có căn cứ xử lý.

Đối với đối tượng Lưu Mạnh C có hành vi mua ma túy mang vào trong phòng hát để sử dụng trái phép cho bản thân, C không mời hay rủ rê người khác cùng sử dụng ma túy, những người trong phòng đều tự lấy ma túy sử dụng, C không biết họ sử dụng ma túy nên chưa đủ căn cứ xử lý.

Đối với Phạm Tiến H1 và Vương Thị Th thuê Bùi Mạnh H trông nom, quản lý quán Karaoke TOP nhưng tại thời điểm Bùi Mạnh H thực hiện hành vi phạm tội, Phạm Tiến H1 và Vương Thị Th không biết việc H cho nhóm của C sử dụng trái phép chất ma túy tại quán, bản thân Vương Thị Th vắng mặt tại địa phương nên không có căn cứ xử lý.

Đối với hành vi kinh doanh quán Karaoke khi chưa đủ điều kiện và hành vi để cho người khác lợi dụng địa điểm sử dụng trái phép chất ma túy tại cơ sở kinh doanh của mình quản lý của Vương Thị Th và hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo H, C, L, L, M, G, Z, Tr, Đ, S, Tạ Thị O, P, T, T2, Cà Thị O và Kh đã được Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Bình Giang tách ra, chuyển vụ việc hành chính đến Công an huyện Bình Giang để xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm d khoản 2 Điều 256, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điểm a, b khoản 1 Điều 46; điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 332, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi Mạnh H phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Bùi Mạnh H 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 07/01/2022.

3. Về xử lý vật chứng:

+ Tịch thu, sung quỹ nhà nước 01 tờ tiền Polymer mệnh giá 10.000đ (được niêm phong trong 01 phong bì thư niêm phong số 243 có chữ ký của người kiểm định tiền và dấu giáp lai của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh huyện Bình Giang).

+ Trả lại anh Phạm Tiến H1 01 đầu ghi hình Camera nhãn hiệu Ahua; 01 màn hình máy vi tính màu đen, ghi nhãn BenQ; 01 cây máy vi tính màu đen nhãn hiệu Fractal và 01 đĩa sứ màu trắng, hình tròn, đường kính 25cm.

+ Trả lại bị cáo Bùi Mạnh H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone loại XSMax, màu đen, gắn sim số 0332.693.X, đã qua sử dụng.

+ Tịch thu, tiêu hủy 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật, là mẫu vật hoàn lại sai giám định.

(Đặc điểm, tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Bình Giang và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Giang ngày 22/6/2022).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Bùi Mạnh H phải chịu 200.000đ án phí sơ thẩm hình sự.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy số 58/2022/HS-ST

Số hiệu:58/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Giang - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về