Bản án về tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy số 132/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 4 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 132/2021/HS-ST NGÀY 14/12/2021 VỀ TỘI CHỨA CHẤP SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 179/2021/TLST-HS ngày 07 tháng 10 năm 2021theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 588/2021/HSST-QĐ ngày 29 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

1. Nguyễn Lâm Nhật Kh (tên gọi khác: Không); Giới tính: Nam; Sinh ngày 06 tháng 5 năm 2001 tại Gia Lai; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 122 đường X, phường Y, Tp. Z, tỉnh G; Nơi cư trú: Căn hộ A1.12A.12 Chung cư A, số 346 đường B, Phường C, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Sinh viên; Trình độ học vấn: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên Chúa; Con ông Nguyễn Văn Ng, sinh năm 1960 và bà Phạm Thị Hồng Tr, sinh năm 1967; Hoàn cảnh gia đình: Anh chị em có 03 người, bị cáo là nhỏ nhất; Vợ, con chưa có. Tiền sự: Không. Tiền án: Không Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 18/11/2020 “có mặt”.

2. Ngô Thị Bích Tr (tên gọi khác: Không); Giới tính: Nữ; Sinh ngày 25 tháng 11 năm 1998 tại Bình Định; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 32C đường D, phường E, thành phố H, tỉnh G; Nơi cư trú: Căn hộ A1.12A.12 Chung cư A, số 346 đường B, Phường C, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Sinh viên; Trình độ học vấn: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

Con ông Ngô Quý Th, sinh năm 1966 (đã chết) và bà Võ Thị Hoàng D, sinh năm 1979; Hoàn cảnh gia đình: Anh chị em có 03 người, bị cáo là lớn nhất; Chồng:

chưa có; Con: Đang mang thai. Tiền sự: Không. Tiền án: Không Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/11/2020, đến ngày 09/02/2021 được thay thế biện pháp tạm giam bằng biện pháp “Bảo lãnh” cho đến nay “có mặt”.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Lâm Nhật Kh: Luật sư Phùng Thị H – Văn phòng Luật sư C – Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh (có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt).

Địa chỉ: 35 đường T, Phường K, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chị Lương Kim Loan (HKTT: 520B1, khu phố 7, phường P, TP. N, tỉnh N) là chủ căn hộ A1.12A.12 chung cư The Gold View số 346 Bến Vân Đồn, Phường 1, Quận 4, căn hộ có một phòng khách và hai phòng ngủ. Từ tháng 3/2020, chị Loan cho Nguyễn Lâm Nhật Kh, Ngô Thị Bích Tr và Mạc Thị Hồng thuê để ở với giá 19.500.000 đồng 1 tháng. Mạc Thị Hồng góp 11.000.000 đồng và cho Tr ở cùng, sử dụng phòng ngủ lớn, Khoa góp 8.500.000 đồng sử dụng phòng ngủ nhỏ. Tháng 8/2020, Hồng có việc về quê nên giao phòng ngủ lớn lại cho Tr ở cùng Khoa tại căn hộ.

Vào lúc 00 giờ 10 ngày 18/11/2020, Công an Phường 1, Quận 4 kiểm tra hành chính căn hộ A1.12A.12 Chung cư A, số 346 đường B, Phường C, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh, phát hiện các đối tượng nghi vấn sử dụng trái phép chất ma túy tại căn hộ gồm: Nguyễn Lâm Nhật Kh, Ngô Thị Bích Tr, Dương Phương U, Hà Nguyễn Chí C và Phan Thị Th. Qua kiểm tra, Công an phát hiện trên bàn trong phòng ngủ bên trái của căn hộ có 01 dĩa sứ đựng tinh thể không màu, phát hiện trên latop và trên mặt bàn có dính tinh thể không màu. Tiếp tục kiểm tra phát hiện trên kệ trong phòng ngủ có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu. Công an Phường 1, Quận 4 tiến hành thu giữ vật chứng và đưa Nguyễn Lâm Nhật Kh, Ngô Thị Bích Tr, Dương Phương U, Hà Nguyễn Chí C và Phan Thị Th về trụ sở Công an Phường 1, Quận 4 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Quá trình điều tra xác định: Khoảng 16 giờ ngày 17/11/2020 sau khi bàn bạc thống nhất mua ma túy về căn hộ của Khôi và Tr thuê để sử dụng. Nguyễn Lâm Nhật Kh, Ngô Thị Bích Tr, Dương Phương U, Hà Nguyễn Chí C và Phan Thị Th cùng đến căn hộ A1.12A.12 Chung cư A, số 346 đường B, Phường C, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh. Khi ở căn hộ thì tất cả vào phòng ngủ của Tr là phòng ngủ lớn bên trái của căn hộ ngồi chơi. Tại đây, cả nhóm thống nhất mua 05 viên “thuốc lắc” với giá 250.000 đồng/01 viên và 2.000.000 đồng ma túy “hàng khay”, tiền mua ma túy sẽ do Tr ứng ra trả trước, khi nào sử dụng ma túy xong thì chia đều phần tiền cho 05 người trả cho Tr. Lúc này, Tr dùng điện thoại di động trực tiếp gọi cho đối tượng tên “A Kem” hỏi mua ma túy. Khoảng 30 phút sau Tr kêu C xuống nhận ma túy. C ra khỏi căn hộ khoảng 10 phút sau thì quay lên, lúc này Tr, Khôi, U, Th đang ngồi trên sàn nhà trong phòng ngủ của Tr nên C đem ma túy vào phòng ngủ của Tr 01 gói nylon bên trong có 05 viên nén là ma túy “thuốc lắc” và một gói nylon nhỏ đựng ma túy “hàng khay” để trên nền nhà nơi mọi người đang ngồi. Sau khi nhận ma túy Tr chuyển khoản ngân hàng trả tiền mua ma túy cho “A Kem” rồi cùng Khôi, C, U và Th tự lấy ma túy “thuốc lắc” sử dụng, C, Khôi, U mỗi người sử dụng 01 viên, Th và Tr mỗi người sử dụng nửa viên, còn 01 viên “thuốc lắc” thì Th bỏ vào túi quần định sử dụng sau, nhưng khi đi vệ sinh đã làm rớt mất. Sau đó, Tr đi ra ngoài bếp lấy một dĩa sứ vào để đựng ma túy “hàng khay” và cùng với U và Khôi sử dụng thêm ma túy “hàng khay”. Đến khoảng 00 giờ 10 phút ngày 18/11/2020 thì bị Công an phường đến kiểm tra lập biên bản phạm tội quả tang.

Căn cứ kết luận giám định số 1967/KLGĐ-H ngày 26/11/2020 của Phòng k thuật hình sự Công an TP. Hồ Chí Minh xác định: 02 gói nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Lâm Nhật Kh, Ngô Thị Bích Tr, Dương Phương U, Hà Nguyễn Chí C và Phan Thị Th và hình dấu Công an Phường 1, Quận 4. Gói 1: Tinh thể không màu là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 0,3061 gam, loại Ketamine; Gói 2: Tinh thể không màu là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 0,3671 gam, loại Ketamine.

Qua xét nghiệm ma túy: Nguyễn Lâm Nhật Kh, Ngô Thị Bích Tr, Dương Phương U, Hà Nguyễn Chí C và Phan Thị Th đều dương tính với ma túy tổng hợp.

Tại Cơ quan Điều tra Công an Quận 4, Ngô Thị Bích Tr thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội "Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy". Sau đó, Tr cho rằng Tr không có thuê nhà và trả tiền thuê nhà, thỉnh thoảng Tr đến ngủ lại căn hộ trên, nên Tr không có hành vi "Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy".

Căn cứ biên bản phạm tội quả tang, thu giữ tang vật là ma túy, dụng cụ sử dụng ma túy, kết quả xét nghiệm ma túy của Dương Phương U, Hà Nguyễn Chí C và Phan Thị Th, xác định các đối tượng sử dụng ma túy tại phòng ngủ do Tr, Khôi quản lý sử dụng. Căn cứ lời khai của Khôi cùng các đối tượng liên quan. Xác định căn hộ A1.12A.12 Chung cư A, số 346 đường B, Phường C, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh do Kh, Tr và H thỏa thuận bàn bạc thuê với giá 19.500.000 đồng 1 tháng. H góp tiền với Kh để trả tiền thuê thông qua Tr. Từ tháng 8/2020 Hồng có việc về quê, Tr là người sử dụng thẻ từ thang máy ra vào căn hộ, một mình sử dụng phòng ngủ lớn cùng với Khôi tại căn hộ. Ngày 17/11/2020 Tr và Khôi là người đồng ý cho các đối tượng U, C và Thuê vào căn hộ và cùng sử dụng ma túy. Do đó, hành vi của Khôi, Tr đã phạm vào tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”.

Đối với số ma túy thu giữ xét khối lượng chưa đến mức truy tố tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nên không xử lý.

Đối với Dương Phương U, Hà Nguyễn Chí C và Phan Thị Th, do khối lượng ma túy thu giữ chưa đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 4 giao cho Công an Phường 1, Quận 4 xử phạt hành chính U, C và Th (Bút lục 104-108).

Đối với chị Lương Kim L chủ căn hộ A1.12A.12 chung cư The Gold View số 346 Bến Vân Đồn, Phường 1, Quận 4. Chị L không biết việc Nguyễn Lâm Nhật Kh, Ngô Thị Bích Tr, Dương Phương U, Hà Nguyễn Chí C và Phan Thị Th sử dụng ma túy tại căn hộ, nên không có cơ sở xử lý.

Đối với người đàn ông giao ma túy cho C, do không xác định được lai lịch, nhân thân nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 4 không có cơ sở xử lý.

Đối với Mạc Thị H, từ tháng 8/2020 Hồng không còn ở căn hộ trên và H đã giao thẻ từ đi thang máy ra vào căn hộ cho Tr. Ngày 18/11/2020 Nguyễn Lâm Nhật Kh, Ngô Thị Bích Tr, Dương Phương U, Hà Nguyễn Chí C và Phan Thị Th sử dụng ma túy tại phòng ngủ lớn của căn hộ trên Hồng không biết và không tham gia nên không có cơ sở xử lý.

Đối với "A Kem" sử dụng số điện thoại 0933.X.988 và số tài khoản 01710X6241. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 4 đã gửi công văn yêu cầu Công ty viễn thông Mobifone và Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam hỗ trợ xác minh và cung cấp thông tin nhưng chưa nhận được kết quả. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 4 đã trích xuất hồ sơ tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

Vật chứng vụ án:

- 01 gói niêm phong ghi số vụ 1967 (1) và 1967 (2) (gói 1), là vật chứng ma túy thu giữ của Nguyễn Lâm Nhật Kh, Ngô Thị Bích Tr, Dương Phương U, Hà Nguyễn Chí C và Phan Thị Th, còn lại sau giám định.

- 01 dĩa sứ màu trắng, 02 thẻ nhựa, dùng để đựng và sử dụng ma túy.

- 01 tờ tiền mệnh giá 20.000 VNĐ, dùng để sử dụng ma túy.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 pro max màu xanh, đã qua sử dụng.

Tr sử dụng điện thoại trên để liên lạc với "A Kem" để mua ma túy.

Thu giữ của bị cáo Ngô Thị Bích Tr:

- 01 latop Macbook pro màu xám, đã qua sử dụng là tài sản cá nhân của Tr.

Thu giữ của bị cáo Nguyễn Lâm Nhật Kh:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone SX max màu vàng, đã qua sử dụng là tài sản cá nhân của Khôi dùng để liên lạc với gia đình.

- 01 Ipad màu xám, đã qua sử dụng, là tài sản cá nhân của Khôi dùng vào việc học tập.

- 01 đồng hồ Apple watch màu đen, đã qua sử dụng, 01 tai nghe bên trái hiệu Apple màu trắng, đã qua sử dụng, là tài sản cá nhân của Khôi.

Toàn bộ số vật chứng và vật tạm giữ trên Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an Quận 4 đã nhập kho vật chứng Công an Quận 4.

Cáo trạng số 157/CT-VKS ngày 07/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 4 truy tố bị cáo Nguyễn Lâm Nhật Kh và bị cáo Ngô Thị Bích Tr về tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 256 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa: Bị cáo Nguyễn Lâm Nhật Khvà Ngô Thị Bích Tr đã thừa nhận hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 4 trình bày lời luận tội: Cáo trạng số 157/CT-VKS ngày 07/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 4 truy tố bị cáo Nguyễn Lâm Nhật Kh và bị cáo Ngô Thị Bích Tr về tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 256 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm d khoản 2 Điều 256, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Nguyễn Lâm Nhật Kh07 (bảy) năm đến 07 (năm) 06 (sáu) tháng tù; Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 256, điểm n, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Ngô Thị Bích Tr 03 (ba) năm đến 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu, tiêu hủy 01 gói niêm phong ghi số vụ 1967 (1) và 1967 (2) (gói 1), là vật chứng ma túy thu giữ của bị cáo Nguyễn Lâm Nhật Kh, bị cáo Ngô Thị Bích Tr, Dương Phương U, Hà Nguyễn Chí C và Phan Thị Th, còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu, hành sử dụng.

- Tịch thu, tiêu hủy 01 dĩa sứ màu trắng, 02 thẻ nhựa, dùng để đựng và sử dụng ma túy là công cụ phạm tội không có giá trị sử dụng.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 tờ tiền mệnh giá 20.000 VNĐ, dùng để sử dụng ma túy.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 pro max màu xanh, đã qua sử dụng của bị cáo Ngô Thị Bích Tr sử dụng để liên lạc với "A Kem" để mua ma túy.

- Trả lại cho bị cáo Ngô Thị Bích Tr 01 latop Macbook pro màu xám, đã qua sử dụng là tài sản cá nhân của bị cáo Tr.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Lâm Nhật Kh 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS Max màu vàng, đã qua sử dụng là tài sản cá nhân của bị cáo Khôi dùng để liên lạc với gia đình.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Lâm Nhật Kh 01 Ipad màu xám, đã qua sử dụng, là tài sản cá nhân của Khôi dùng vào việc học tập.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Lâm Nhật Kh 01 đồng hồ Apple watch màu đen, đã qua sử dụng, 01 tai nghe bên trái hiệu Apple màu trắng, đã qua sử dụng, là tài sản cá nhân của bị cáo Khôi.

Phần tranh luận: Các bị cáo không tranh luận.

Lời nói sau cùng:

Bị cáo Kh: Bị cáo đã nhận ra lỗi lầm, xin được giảm nhẹ hình phạt để về tiếp tục học hành.

Bị cáo Tr: Bị cáo đã ăn năn về hành vi phạm tội. Trong thời gian tại ngoại đã tham gia công tác tình nguyện chống dịch để chuộc lại lỗi lầm. Xin giảm nhẹ hình phạt để về nuôi mẹ, nuôi em và nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 4, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 4, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

[2]. Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Lâm Nhật Khvà bị cáo Ngô Thị Bích Tr thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã nêu. Qua lời khai của các bị cáo, đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để kết luận:

Vào khoảng 00 giờ 10 phút ngày 18/11/2020, bị cáo Nguyễn Lâm Nhật Kh và bị cáo Ngô Thị Bích Tr đã sử dụng địa điểm căn hộ A1.12A.12 Chung cư A, số 346 đường B, Phường C, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh, do bị cáo Kh, Tr quản lý sử dụng để các đối tượng Dương Phương U, Hà Nguyễn Chí C và Phan Thị Th cùng nhau sử dụng trái phép chất ma túy tại căn hộ thì bị phát hiện bắt quả tang nên các bị cáo đã phạm vào tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 256 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3]. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Để có tác dụng giáo dục và răn đe, căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm cần có mức án tương xứng để xử phạt. Tuy nhiên, xét các bị cáo thành khẩn khai báo, nên khi lượng hình có xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Bị cáo Tr đang mang thai, có tham gia chống dịch Covid, gia đình có nhiều người có công với cách mạng. Bị cáo có ông nội tên Ngô Giác có Huân chương kháng chiến, Bác ruột tên Võ Thanh Tăng là liệt s nên cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm n khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. [4]. Về xử lý vật chứng:

- 01 gói niêm phong ghi số vụ 1967 (1) và 1967 (2) (gói 1), là vật chứng ma túy thu giữ của bị cáo Nguyễn Lâm Nhật Kh, bị cáo Ngô Thị Bích Tr, Dương Phương U, Hà Nguyễn Chí C và Phan Thị Th, còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu, hành sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

- 01 dĩa sứ màu trắng, 02 thẻ nhựa, dùng để đựng và sử dụng ma túy là công cụ phạm tội không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

- 01 tờ tiền mệnh giá 20.000 VNĐ, dùng để sử dụng ma túy là công cụ phạm tội cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 pro max màu xanh, đã qua sử dụng của bị cáo Ngô Thị Bích Tr sử dụng để liên lạc với "A Kem" để mua ma túy là phương tiện phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

- 01 latop Macbook pro màu xám, đã qua sử dụng là tài sản cá nhân của bị cáo Ngô Thị Bích Tr không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo Tr.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS Max màu vàng, 01 Ipad màu xám, 01 đồng hồ Apple watch, 01 tai nghe bên trái hiệu Apple màu trắng đã qua sử dụng là tài sản cá nhân của bị cáo Nguyễn Lâm Nhật Khdùng để liên lạc với gia đình và sử dụng vào mục đích cá nhân không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo Khôi.

[5]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 256, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Lâm Nhật Kh 07 (bảy) năm tù về tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 18/11/2020;

Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 256; điểm n, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Ngô Thị Bích Tr 03 (ba) năm tù về tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/11/2020 đến ngày 09/02/2021.

Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

- Tịch thu, tiêu hủy : 01 gói niêm phong ghi số vụ 1967 (1) và 1967 (2) (gói 1), là vật chứng ma túy thu giữ của bị cáo Nguyễn Lâm Nhật Kh, bị cáo Ngô Thị Bích Tr, Dương Phương U, Hà Nguyễn Chí C và Phan Thị Th, còn lại sau giám định.

- Tịch thu, tiêu hủy 01 dĩa sứ màu trắng, 02 thẻ nhựa.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 pro max màu xanh, đã qua sử dụng của bị cáo Ngô Thị Bích Tr.

- Trả lại cho bị cáo Ngô Thị Bích Tr 01 latop Macbook pro màu xám, đã qua sử dụng.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Lâm Nhật Kh01 điện thoại di động hiệu Iphone XS Max màu vàng ; 01 Ipad màu xám, 01 đồng hồ Apple watch màu đen, 01 tai nghe bên trái hiệu Apple màu trắng tất cả đều đã qua sử dụng.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 51 ngày 14 tháng 12 năm 2021 giữa Công an Quận 4 và chi cục thi hành án dân sự Quận 4, Giấy nộp tiền của Công an Quận 4 vào Kho bạc Nhà nước Quận 4).

- Căn cứ Điều 135 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng;

Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày từ án.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

32
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy số 132/2021/HS-ST

Số hiệu:132/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 4 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về