TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 60/2021/HS-PT NGÀY 05/11/2021 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
Ngày 05 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang, mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 144/2021/TLPT-HS ngày 11 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo Huỳnh Hoàng T do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2021/HS-ST ngày 02 tháng 7 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 110/2021/QĐXXPT-HS ngày 24/9/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 30/2021/HSPT-QĐ ngày 08/10/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 35/2021/HSPT-QĐ ngày 28/10/2021;
Bị cáo bị kháng nghị:
Huỳnh Hoàng T (T Già), sinh năm 1997; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: Tổ 13, khóm VC, phường V, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Đạo Phật; Trình độ học vấn: Lớp 9/12; Nghề nghiệp: Làm thuê; Con ông: Huỳnh Văn D, sinh năm 1981 và bà Dương Thị Ngọc L, sinh năm 1978.
- Tiền án, tiền sự: Không;
- Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 18/02/2021 cho đến nay;
- Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
* Người bào chữa cho bị cáo:
Luật sư: Ông Nguyễn Quốc K - Công ty luật Lâm Thanh, thuộc Đoàn luật sư tỉnh An Giang; (có mặt) Địa chỉ: Ấp Mỹ P, xã P, huyện An Phú, tỉnh An Giang;
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Lê Hoàng B (Hoàng Anh), sinh năm 1997;
Nơi cư trú: Khóm VC, phường V, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang; (có mặt) mặt) mặt)
2. Trương Văn Đ, sinh năm 1998;
Nơi cư trú: Khóm VC, phường V, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang; (có mặt)
3. Nguyễn Văn Q, sinh năm 1986;
Nơi cư trú: Ấp PQ, xã Đ, huyện An Phú, tỉnh An Giang; (vắng mặt)
4. Lê Minh Đ1, sinh năm 1996;
Nơi cư trú: Khóm VC, phường V, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang; (có mặt)
5. Đào Văn Th, sinh năm 2000; Nơi cư trú: Khóm VC, phường V, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang;
(vắng mặt) 6. Nguyễn Thanh H (Phố), sinh năm 1992;
Nơi cư trú: Khóm VC, phường V, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang; (vắng mặt)
(Ngoài ra các bị cáo khác trong vụ án và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 06 giờ ngày 01/02/2021, anh Lê Phú C - Phó trạm trưởng Cảnh sát đường thủy Châu Đốc, kiêm Tổ trưởng Tổ Công tác số 8 thuộc Công an tỉnh An Giang, phân công các anh Lê Vũ Tr - Cán bộ Trạm Cảnh sát đường thủy Châu Đốc và anh Đặng Văn BH - Cán bộ Tiểu đoàn Cảnh sát cơ động E21-K02 dùng canô tuần tra trên tuyến sông Hậu từ thủy phận thuộc khóm 2, phường Châu Phú A, thành phố Châu Đốc đến ấp Phước Quản, xã Đa Phước, huyện An Phú. Khi đến đoạn sông thuộc ấp Phước Quản, xã Đa Phước, huyện An Phú phát hiện Nguyễn Văn Q cùng với Nguyễn Thanh H, Nguyễn Nhật L và Nhí (chưa xác định được nhân thân) điều khiển vỏ lãi composite chở nhiều bếp gas và xe đạp điện nghi vấn nhập lậu, nên anh Tr điều khiển canô đến kiểm tra, thì Q, H, L và Nhí bỏ trốn tại bè cá của anh Nguyễn Văn L1 gần đó, để lại hàng hóa cùng phương tiện, nên anh BH tạm giữ vỏ lãi cùng hàng hóa, chờ lực lượng của Tổ Công tác số 8 đến hỗ trợ và lập biên bản.
Cùng lúc này, Huỳnh Hoàng T (T Già) nghe Lê Minh Đ1 cho biết hàng hóa vận chuyển (bếp gas và xe đạp điện) bị Công an tạm giữ ở khu vực sông thuộc ấp Phước Quản, xã Đa Phước, huyện An Phú, thì T nói với Đ1 tìm thêm người cùng T đi lấy lại hàng. Một lúc sau, Lê Hoàng B điều khiển vỏ lãi chở T, Đ1, Đào Văn Th, Trương Văn Đ và Trần Văn V từ bến cá phường V, thành phố Châu Đốc đến gần chiếc vỏ hàng hóa bị tạm giữ khoảng 10 mét thấy anh BH đang đứng trên vỏ lãi, thì T và Đ1 kêu B điều khiển võ lãi đụng vào vỏ hàng hóa cho chìm, B liền điều khiển vỏ lãi chạy đâm lướt qua, bên trên chiếc vỏ hàng hóa, nhưng vỏ hàng hóa không chìm, B liền điều khiển vỏ lãi quay lại đâm vào chiếc vỏ hàng hóa tiếp.
Đồng thời, T kêu Q, H, L từ bè anh L1 gần đó bơi vào hỗ trợ giật lại hàng hóa, thì anh Tr lái canô vòng lại ngăn không cho vỏ lãi của B điều khiển đụng vào chiếc vỏ hàng hóa, làm T té xuống sông. Tiếp đó, Q và V từ dưới nước trèo lên vỏ lãi chở hàng hóa ôm khống chế anh BH, Đ và Th lên vỏ lãi ném bếp gas xuống sông, còn H, L và Đ1 thì đè láp máy xuống nhằm làm cho vỏ chở hàng hóa chìm, nhưng vỏ hàng hóa không chìm.
B tiếp tục lái vỏ lãi đụng lướt qua vỏ lãi chở hàng hóa, thì hai vỏ lãi vướng vào nhau, khi Đ đang ném bếp gas xuống sông thấy Q cùng V đang khống chế anh BH, Đ liền tiến lại nắm hất chân anh BH, làm anh BH cùng với Q và té ngã xuống sông. Thấy vậy, anh Tr liền lái canô đụng vào hai vỏ lãi để dọa thì các đối tượng bỏ chạy, riêng Đ và Th vẫn tiếp tục ném số bếp gas còn lại xuống sông. Sau đó, lực lượng Công an đến hỗ trợ, thì các đối tượng lên vỏ lãi điều khiển chạy về hướng phường Vĩnh Ngươn, thành phố Châu Đốc tẩu thoát.
Ngày 03/02/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện An Phú khởi tố vụ án điều tra làm rõ.
Căn cứ Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 08/KL- HĐĐG.TTHS ngày 17/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện An Phú, tỉnh An Giang, kết luận: 11 (mười một) bếp gas hiệu Rinnai có giá 29.700.000 đồng; 04 (bốn) bếp gas hiệu Paloma có giá 10.556.000 đồng; 02 bếp gas hiệu Tokyo có giá 4.600.000 đồng; 03 (ba) xe đạp điện, không có bình ắc quy có giá 1.950.000 đồng. Tổng trị giá tài sản là 46.806.000 đồng; (Bốn mươi sáu triệu tám trăm lẻ sáu nghìn đồng) Tại cơ quan điều tra, bị cáo Huỳnh Hoàng T khai nại bếp gas và xe đạp điện bị lực lượng công an bắt giữ không phải của T, T cũng không chỉ đạo các bị cáo khác tham gia để giật lại hàng hóa.
Các bị cáo Lê Minh Đ1, Nguyễn Văn Q, Đào Văn Th, Nguyễn Thanh H, Lê Hoàng B và Trương Văn Đ khai nhận hành vi phạm tội phù hợp như nội dung vụ án, phù hợp với lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, đều khai cùng làm thuê cho T. Bị cáo Đ1 với nhiệm vụ chạy xe trên đường canh lực lượng Công an để T cho người vận chuyển bếp gas, xe đạp điện nhập lậu từ Campuchia về Việt Nam tiêu thụ. Việc Q, Th, H, B và Đ tham gia vận chuyển bếp gas, xe đạp điện khi bị công an tạm giữ thì các bị cáo cùng nhau tham gia giật vì muốn giữ lại hàng hóa cho T.
Tại bản Cáo trạng số 30/CT – VKS.AP ngày 02/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang, đã truy tố các bị cáo Huỳnh Hoàng T, Lê Hoàng B, Trương Văn Đ, Nguyễn Văn Q, Đào Văn Th, Lê Minh Đ1 và Nguyễn Thanh H về tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại Bản án số 49/2021/HS-ST ngày 02/7/2021 của Tòa án nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang, quyết định:
Tuyên bố: Các bị cáo Huỳnh Hoàng T, Lê Hoàng B, Trương Văn Đ, Nguyễn Văn Q, Đào Văn Th, Lê Minh Đ1 và Nguyễn Thanh H phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.
Áp dụng: khoản 1 Điều 330; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Xử phạt:
1. Bị cáo Huỳnh Hoàng T 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/02/2021;
2. Bị cáo Lê Hoàng B 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/02/2021;
3. Bị cáo Lê Minh Đ1 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/02/2021;
4. Bị cáo Trương Văn Đ 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/02/2021;
5. Bị cáo Nguyễn Văn Q 09 (Chín) tháng tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/3/2021;
6. Bị cáo Đào Văn Th 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/02/2021;
7. Bị cáo Nguyễn Thanh H 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/02/2021;
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của các bị cáo theo quy định pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm các bị cáo không kháng cáo.
Ngày 22/7/2021, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang có Quyết định kháng nghị số 04/QĐ-KNPT-HS đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2021/HSST ngày 02/7/2021 của Tòa án nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang về áp dụng pháp luật và mức hình phạt đối với bị cáo Huỳnh Hoàng T và đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng áp dụng điểm c khoản 2 Điều 330 Bộ luật Hình sự và tăng hình phạt đối với bị cáo T.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Huỳnh Hoàng T cho rằng số hàng hóa nhập lậu bị lực lượng chức năng bắt giữ không phải của bị cáo, đồng thời bị cáo tham gia cùng B, Đ1, Th, Đ, Q, V, H, L giật lấy lại số hàng hóa bị lực lượng công an thu giữ, khi lực lượng công an đến hỗ trợ bị cáo có kêu những bị cáo khác lên vỏ lãi tẩu thoát, nhưng không chỉ đạo các bị cáo Đ, Q tìm người để giật lại hàng hóa bị bắt giữ.
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa, sau khi xét hỏi, tranh luận, xem xét tính chất, mức độ, hành vi, vai trò phạm tội các của bị cáo; xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; giữ nguyên kháng nghị về phần tăng hình phạt đối với bị cáo Huỳnh Hoàng T, không áp dụng điểm c khoản 2 Điều 330 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Huỳnh Hoàng T. Đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng: điểm b khoản 1 Điều 355; điểm a khoản 2 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Sửa bản án sơ thẩm, tăng mức hình phạt đối với bị cáo Huỳnh Hoàng T, có thể xử phạt bị cáo Huỳnh Hoàng T từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.
* Luật sư trình bày lời bào chữa cho bị cáo Huỳnh Hoàng T:
Về tố tụng, quá trình giải quyết cấp sơ thẩm chỉ điều tra, truy tố, xét xử bị cáo theo khoản 1 Điều 330, việc Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang kháng nghị phúc thẩm đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 330 để xét xử nặng hơn mức hình phạt cấp sơ thẩm đã tuyên là vượt quá phạm vi xét xử của cấp phúc thẩm, vi phạm nguyên tắc xét xử 2 cấp của Tòa án. Bởi lẽ, nếu cấp phúc thẩm chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát thì bị cáo T sẽ không có quyền kháng cáo, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo. Theo khoản 6 điều 103 của Hiến pháp xét về mặt tố tụng kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang là không đảm bảo. Mặt khác, tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát rút yêu cầu áp dụng khoản 2 coi như việc tăng hình phạt là không còn cơ sở để Hội đồng xét xử xem xét.
Về nội dung, chúng tôi thống nhất với bản án sơ thẩm đã tuyên về áp dụng pháp luật và mức hình phạt, trong vụ án này bị cáo T chỉ kêu ra tiếp chứ không có chỉ đạo một cách cương quyết, quyết liệt, bị cáo chỉ kêu vậy, về ý chí cơ bản Q, H trực tiếp thực hiện, thống nhất làm việc này chứ không phải do tác động rất mơ hồ của T. Trong kháng nghị chỉ kháng nghị về phần nội dung, các loại tài sản cấp sơ thẩm xác định đây là hàng hóa nhập lậu nên tịch thu, rõ ràng kháng nghị của Viện kiểm sát đã chấp nhận quan điểm này của cấp sơ thẩm, tức là hàng hóa không phải của bị cáo T. Tại phiên tòa hôm nay, lời khai của bị cáo và những người liên quan mâu thuẫn với nhau, do vậy không thể xác định đây là hàng hóa của bị cáo T hay T có hành vi rủ rê các bị cáo khác đi giật lại hàng. Do vậy, về phần nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát cũng không đảm bảo. Ngoài ra, căn cứ tình hình dịch bệnh như hiện nay, bị cáo T cũng là lao động chính trong gia đình, nên xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo. Vì các lẽ trên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự giữ nguyên hình phạt của bản án cấp sơ thẩm đối với bị cáo Huỳnh Hoàng T.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Kháng nghị số 04/QĐ-KNPT-HS ngày 22/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang trong hạn luật định, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận và xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Huỳnh Hoàng T khai nhận, bị cáo có tham gia cùng các bị cáo B, Đ1, Đ, Th, H, Q, L, V thực hiện hành vi phạm tội như nội dung án sơ thẩm, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra; phù hợp với lời khai của các bị cáo khác trong vụ án và ngược lại; phù hợp với lời khai người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng; cùng các tài liệu, chứng cứ khác của vụ án được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử các bị cáo Huỳnh Hoàng T, Lê Minh Đ1, Nguyễn Văn Q, Đào Văn Th, Nguyễn Thanh H , Lê Hoàng B và Trương Văn Đ cùng về tội “Chống người thi hành công vụ” quy định tại Điều 330 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang thì thấy:
Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo biết và nhận thức được anh BH và anh Tr là lực lượng Công an đường thủy đang thực thi nhiệm vụ. Nhưng khi biết được số hàng hóa nhập lậu là bếp gas và xe đạp của mình bị bắt giữ, nên bị cáo cùng với B, Đ, Đ1, Q, Th, H điều khiển vỏ lãi đâm vào vỏ lãi chở hàng hóa nhập lậu, đè lắp máy xuống nhằm mục đích làm cho vỏ lãi chở hàng hóa chìm để giật lại, ném hàng hóa nhập lậu xuống sông và dùng vũ lực đẩy anh Đặng BH té xuống sông trong lúc đang thi hành công vụ. Mặt khác, căn cứ vào lời khai của của các bị cáo H, Th, Q, Đ, Đ1 trong quá trình điều tra cũng như lời khai của các bị cáo B, Đ, Đ1 tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, đều khai nhận các bếp gas và xe đạp điện bị lực lượng Công an thu giữ là của bị cáo T, các bị cáo chỉ là người làm thuê cho bị cáo T, nên khi biết T đi giật lại hàng hóa bị bắt giữ thì các bị cáo quyết định cùng tham gia đi giật lại hàng hóa cho T, chứ T không có xúi giục, hay chỉ đạo các bị cáo. Do đó, chỉ có căn cứ để xác định bị cáo T là người giữ vai trò chính trong vụ án đồng phạm này và Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Huỳnh Hoàng T theo khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự là có căn cứ. Tuy nhiên, xét thấy cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo T 09 tháng tù là mức án quá nhẹ, chưa tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm từ hành vi phạm tội của bị cáo, chưa phân hóa vai trò chính cũng như quyết định hình phạt của bị cáo T so với các bị cáo B, Đ, Đ1, Q. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định chấp nhận Kháng nghị số 04/QĐ-KNPT-HS ngày 22/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang, về tăng hình phạt đối với bị cáo Huỳnh Hoàng T và cần xử phạt bị cáo với một mức án nghiêm tương xứng với hành vi, vai trò phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục, cải tạo nhằm răn đe và phòng ngừa chung.
[4] Do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang kháng nghị nên bị cáo Huỳnh Hoàng T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo điểm d khoản 1 Điều 11 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
[5] Các phần quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: điểm b khoản 1 Điều 355; điểm a khoản 2 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Chấp nhận Kháng nghị số 04/QĐ-KNPT-HS ngày 22/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang;
Sửa bản án hình sự sơ thẩm về phần hình phạt;
Áp dụng: khoản 1 Điều 330; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung 2017.
Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Hoàng T 01 năm 03 tháng (một năm ba tháng) tù về tội “Chống người thi hành công vụ”;
Bị cáo Huỳnh Hoàng T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm;
Các phần quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị;
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội chống người thi hành công vụ số 60/2021/HS-PT
Số hiệu: | 60/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân An Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/11/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về