TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN
BẢN ÁN 47/2023/HS-ST NGÀY 12/04/2023 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
Ngày 12 tháng 4 năm 2023, tại Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 33/2023/TLST-HS ngày 08 tháng 3 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2023/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo:
Trần Thanh D, sinh năm 1977 tại Ninh Thuận. Nơi cư trú: Khu phố Z, phường Đ, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần X (đã chết) và bà Trần Thị N; có vợ là Phạm Thị T và 03 người con, lớn nhất sinh năm: 2003 (đã chết), nhỏ nhất sinh năm: 2013.
Tiền án, tiền sự: Không có.
Bị cáo đang thực hiện Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt tại phiên tòa).
- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Phạm Văn P – Luật sư Văn phòng luật sư Duy P thuộc Đoàn luật sư tỉnh Ninh Thuận (có mặt).
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Hoàng Hữu H, sinh năm 1983. Nơi cư trú: Khu phố X, phường K, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (có mặt).
* Người làm chứng:
1. Ông Hồ Sỹ C, sinh năm 1973. Nơi cư trú: Khu phố T, phường Đ, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (có mặt).
2. Bà Nguyễn Thị Thanh Tr, sinh năm 1984. Nơi cư trú: Khu phố M, phường Đ, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (có mặt).
3. Bà Võ Thị Đăng K, sinh năm 1983. Nơi cư trú: Khu phố M, phường Đ, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (vắng mặt).
4. Ông Trình Văn T, sinh năm 1986. Nơi cư trú: Khu phố N, phường Đ, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (có mặt).
5. Bà Nguyễn Thị Thy N, sinh năm 1992. Nơi cư trú: Khu phố T, phường L, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (vắng mặt).
6. Ông Phạm Công S, sinh năm 1978. Nơi cư trú: Khu phố Z, phường Đ, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (vắng mặt).
7. Ông Huỳnh Thanh V, sinh năm 1995. Địa chỉ: Công an phường Đ, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (vắng mặt).
8. Ông Lê Thành N, sinh năm 1998. Địa chỉ: Công an phường Đ, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (vắng mặt).
9. Ông Trần Ngọc A, sinh năm 1954. Nơi cư trú: Khu phố N, phường Đ, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (có mặt).
10. Ông Bùi Văn T, sinh năm 1964. Nơi cư trú: Thôn PT, phường Đ, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (có mặt).
11. Ông Đỗ Văn B, sinh năm 1972. Nơi cư trú: Khu phố Z, phường Đ, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Thực hiện Quyết định số 97/QĐ-UBND ngày 30/8/2022 của Ủy ban nhân dân phường Đ, thành phố P về việc thành lập Đoàn kiểm tra liên ngành xử lý trật tự đô thị trên địa bàn phường Đ; Kế hoạch 125/KH-UBND ngày 23/12/2022 của Ủy ban nhân dân phường Đ về việc tuyên truyền, kiểm tra, xử lý vi phạm lấn chiếm lòng đường, vỉa hè trên địa bàn phường; Thông báo 126/TB-UBND ngày 26/12/2022 của Ủy ban nhân dân phường Đ về việc điều chỉnh thời gian của Kế hoạch 125/KH-UBND ngày 23/12/2012 của Ủy ban nhân dân phường Đ và Thông báo số 129/TB-UBND ngày 29/12/2022 của Ủy ban nhân dân phường Đ về lịch kiểm tra xử lý trật tự đô thị trên địa bàn phường.
Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 31/12/2022, Đoàn kiểm tra liên ngành xử lý trật tự của phường Đ tiến hành ra quân nhắc nhở, xử lý các cá nhân, hộ dân kinh doanh có hành vi lấn chiếm lòng đường, vỉa hè để buôn bán ở dọc đường H thuộc khu phố Z, và khu phố T, phường Đ, thành phố P. Đoàn kiểm tra do ông Hoàng Hữu H – Phó Chủ tịch UBND phường Đ làm Trưởng Đoàn; các thành viên gồm: Ông Hồ Sỹ C – Cán bộ địa chính, bà Nguyễn Thị Thanh Tr – Chủ tịch Hội Phụ nữ, bà Nguyễn Thị Thi N – Bí thư Đoàn thanh niên, ông Trình Văn T – Chủ tịch Hội Cựu chiến binh, bà Võ Thị Đăng K – Phó Chủ tịch Hội Nông dân, ông Phạm Công S – Cán bộ Tài nguyên và Môi trường, ông Trần Ngọc A – Bảo vệ dân phố, ông Bùi Văn T – Bảo vệ dân phố, ông Đỗ Văn B – Đội dân phòng, ông Đỗ V – Đội dân phòng, ông Huỳnh Thanh V – Cán bộ Công an phường, ông Lê Thành N – Cán bộ Công an phường.
Khi Đoàn kiểm tra đi đến trước Trường THCS Võ Nguyên Giáp trên đường H thuộc khu phố Z, phường Đ, thành phố P phát hiện Trần Thanh D đang bày bán than lấn chiếm khu vực vỉa hè bên hông tường rào trường Võ Nguyên Giáp nên đã tiến hành nhắc nhở và yêu cầu D thu dọn hàng hóa đang để lấn chiếm vỉa hè, dọn đến khu vực chợ chiều gần đó để buôn bán. Khi được nhắc nhở, D không dọn hẳn mà chỉ kéo các bao than sát vào tường rào của trường Võ Nguyên Giáp đồng thời D cùng một số người trong gia đình có lời nói chửi bới Đoàn kiểm tra. Lúc này, Đoàn kiểm tra chuẩn bị rời đi để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ nhưng do thấy gia đình D không dọn hẳn hàng hóa mà chỉ kéo sát tường rào, liên tục chửi bới Đoàn công tác nên ông Hoàng Hữu H (ngồi sau xe ông Hồ Sỹ C) yêu cầu ông C quay xe lại để ông H quay phim, ghi lại hình ảnh gia đình D chửi bới, chống đối, làm căn cứ để xử lý về sau. Khi ông H vừa lấy điện thoại ra chuẩn bị quay phim, D tức giận vì bị quay phim nên đi đến gần vị trí ông H, dùng tay trái đánh một cái vào mặt bên phải của ông H khiến ông H té xuống đất nhưng không bị thương tích. Lúc này, lực lượng Công an và những thành viên trong tổ công tác đi đến can ngăn, đưa D về trụ sở Công an phường để làm việc. Trước đó, ngày 30/12/2022, D đã được tổ công tác nhắc nhở, yêu cầu không được buôn bán tại khu vực vỉa hè này nhưng D vẫn tiếp tục vi phạm, không chấp hành. Tại Cơ quan điều tra, D đã thừa nhận hành vi vi phạm của mình.
Cáo trạng số: 36/CT–VKSPRTC ngày 03/3/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm truy tố bị cáo Trần Thanh D về tội “Chống người thi hành công vụ” quy định tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung vụ án đã nêu.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông H trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Về trách nhiệm dân sự không yêu cầu bị cáo bồi thường.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Trần Thanh D phạm tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự.
Áp dụng: Khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự; Điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Thanh D từ 06 (sáu) tháng tù đến 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
Luật sư bào chữa cho bị cáo tranh luận: Cáo trạng truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc nhân thân, tính chất, mức độ hành vi: bị cáo thực hiện hành vi bộc phát, nhất thời, ít nguy hiểm, không gây thương tích cho người thực hiện công vụ. Nhân thân: học vấn thấp, nhận thức pháp luật hạn chế, là lao động duy nhất trong gia đình đang nuôi mẹ già, vợ và 02 con nhỏ. Tình tiết giảm nhẹ: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, ông H xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 330; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 65 xử phạt bị cáo dưới mức khung hình phạt, cho bị cáo được hưởng án treo.
Bị cáo không tranh luận.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thấy hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp chàm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Thanh D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ khác đã được thu thập tại hồ sơ vụ án, có căn cứ xác định: Đoàn kiểm tra liên ngành được Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường Đ thành lập theo Quyết định số 97/QĐ-UBND ngày 30/8/2022 về việc xử lý trật tự đô thị trên toàn địa bàn phường Đ năm 2022; Ngày 23/12/2022 Ủy ban nhân dân phường Đ ban hành Kế hoạch số 125/KH-UBND về việc tuyên truyền, kiểm tra, xử lý vi phạm lấn chiếm lòng đường, vỉa hè trên địa bàn phường. Thực hiện Kế hoạch trên, Ủy ban nhân dân phường Đ đã ban hành thời gian và Lịch kiểm tra xử lý trật tự đô thị trên địa bàn phường tại các tuyến đường H, đường B, đường Y.
Mặc dù trước đó đã được Ủy ban nhân dân phường Đ, thành phố P thông báo và nhắc nhở về việc không được buôn bán lấn chiếm vải hè nhưng vào khoảng 08 giờ ngày 31/12/2022 tại tuyến đường H thuộc khu phố Z, phường Đ, thành phố P, khi Đoàn kiểm tra liên ngành xử lý trật tự đô thị phường Đ tiếp tục kiểm tra, nhắc nhở và yêu cầu dọn dẹp hàng hóa lấn chiếm vỉa hè nhưng Trần Thanh D không chấp hành mà còn có lời lẽ chửi bới và dùng tay đánh vào mặt ông Hoàng Hữu H – Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường Đ, là Trưởng Đoàn kiểm tra nhằm cản trở hoạt động công vụ của ông H và Đoàn kiểm tra. Hành vi của bị cáo Trần Thanh D đủ yếu tố cấu thành tội “Chống người thi hành công vụ” theo quy định tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự. Như vậy, Cáo trạng số 36/CT–VKSPRTC ngày 03/3/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm truy tố là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo:
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính Nhà nước, gây cản trở đến hoạt động công vụ của cơ quan Nhà nước, của người đang thi hành công vụ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự xã hội tại địa phương. Bị cáo là người đã thành niên, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nên cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng tại phiên tòa người liên quan xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xét thấy, bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, nhân thân của bị cáo tốt, chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu. Chiếu theo chính sách khoan hồng nhân đạo của pháp luật, cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[4] Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Hoàng Hữu H không có yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 330; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Trần Thanh D phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.
Xử phạt: Bị cáo Trần Thanh D 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 (mười tám) tháng, kể từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo Trần Thanh D cho Ủy ban nhân dân phường Đ, thành phố P giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Bị cáo Trần Thanh D phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
(Đã giải thích quy định về án treo cho bị cáo D).
Bản án về tội chống người thi hành công vụ số 47/2023/HS-ST
Số hiệu: | 47/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/04/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về