TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 44/2021/HSPT NGÀY 29/06/2021 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
Trong ngày 29 tháng 6 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình tiến hành xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 72/2021/TLPT-HS ngày 01 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Tri S do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 36/2021/HS-ST ngày 31/3/2021 của Tòa án nhân dân huyện HH, tỉnh Thái Bình.
* Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Tri S, sinh năm 1984; Nơi cư trú: Thôn T, xã An T, huyện QP, tỉnh Thái Bình; Nghề nghiệp: Lái xe; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ học vấn: 7/12; con ông Nguyễn Tri B, sinh năm 1961 và bà Phạm Thị X, sinh năm 1963; có vợ là chị Lê Thị L, sinh năm 1982 và có 02 con, con lớn sinh năm 2005, con nhỏ sinh năm 2007; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 24/12/2020 đến nay. (Có mặt)
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn N - Sinh năm 1992; nơi cư trú: Thôn ĐH, xã HL, huyện HH, tỉnh Thái Bình. Hiện là cán bộ Đội cảnh sát giao thông trật tự Công an huyện HH, tỉnh Thái Bình không có kháng cáo, Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Thực hiện Kế hoạch tuần tra, kiểm soát giao thông ngày 04/11/2020 (thời gian thực hiện từ 13 giờ 30 phút đến 15 giờ 30 phút ngày 04/11/2020), Đội Cảnh sát giao thông trật tự Công an huyện HH phân công Tổ tuần tra, kiểm soát đường Thái Bình - Hà Nam đoạn qua địa phận huyện HH gồm 05 đồng chí: Đại úy Nguyễn Xuân Dưỡng - Cán bộ đội Cảnh sát giao thông làm Tổ trưởng, nhiệm vụ kiểm soát chung; đồng chí Phạm Văn Thanh - Phó Tổ trưởng, nhiệm vụ lập biên bản vi phạm, hỗ trợ dừng phương tiện; đồng chí Đỗ Gia Cương - Tổ viên, nhiệm vụ dừng phương tiện; đồng chí Nguyễn Văn N - Tổ viên, nhiệm vụ dừng phương tiện (các đồng chí Dưỡng, Thanh, Cương và N đều mặc trang phục của Cảnh sát giao thông); đồng chí Bùi Đăng Duy - Tổ viên, nhiệm vụ sử dụng máy đo tốc độ phát hiện vi phạm, thông báo vi phạm cho Tổ công tác (mặc thường phục). Đến 13 giờ 46 phút cùng ngày, đồng chí Bùi Đăng Duy sử dụng máy đo tốc độ phát hiện xe ô tô tải biển kiểm soát 29C-832.63 do Nguyễn Tri S điều khiển theo hướng Thái Bình đi Hà Nam, chạy với tốc độ 70km/h trên làn đường cho phép chạy tốc độ tối đa 50km/h (vượt quá 20km/h). Đồng chí Duy đã thông báo lỗi vi phạm trên cho Tổ công tác biết qua bộ đàm. Nhận được thông tin, đồng chí Đỗ Gia Cương, Nguyễn Văn N và Phạm Văn Thanh đã ra vị trí để thực hiện việc dừng phương tiện đối với xe ô tô vi phạm theo quy trình. Khi xe ô tô của S còn cách Tổ công tác khoảng 100m, các đồng chí Cương, N, Thanh đã sử dụng gậy chỉ huy giao thông và còi ra hiệu lệnh dừng phương tiện. Lúc này cách khoảng 30m S phát hiện có Cảnh sát giao thông đã giảm tốc độ nhưng không chấp hành hiệu lệnh dừng xe lại mà tiếp tục điều khiển xe ô tô tiến về phía Tổ công tác. Sau khi tránh được vị trí đồng chí Cương, S đánh lái sang trái tiến về phía đồng chí N đứng và tăng tốc bỏ chạy, thấy vậy đồng chí N tránh người sang phía bên phải của xe nhưng không kịp, bị phần gương chiếu hậu phía bên phải xe của S va chạm vào vai phải làm đồng chí N ngã văng xuống đường. S không dừng xe lại tiếp tục điều khiển xe bỏ chạy đến khu Đồng Tu 1, thị trấn HH, huyện HH, tỉnh Thái Bình thì bị Tổ công tác cùng quần chúng nhân dân chặn lại. Khi S xuống xe, được Tổ công tác thông báo lỗi vi phạm và yêu cầu xuất trình giấy tờ S không chấp hành và có lời nói chửi tục, xúc phạm Tổ công tác (toàn bộ diễn biến của sự việc đều được camera chuyên dụng ghi lại). Sau đó Tổ công tác đưa lái xe và phương tiện về trụ sở Công an thị trấn HH để lập biên bản vụ việc. Do S không chấp hành hiệu lệnh, cản trở Tổ công tác thực hiện nhiệm vụ nên Tổ công tác không xử lý được hành vi vi phạm trật tự an toàn giao thông đối với Nguyễn Tri S.
Bản án hình sự sơ thẩm số 36/2021/HS-ST ngày 31/3/2021 Tòa án nhân dân huyện HH, tỉnh Thái Bình đã quyết định:
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Tri S phạm tội: “Chống người thi hành công vụ”.
2. Áp dụng khoản 1 Điều 330, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 50, Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Tri S 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án.
Ngoài ra án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 02/4/2021, bị cáo Nguyễn Tri S kháng cáo xin được cải tạo không giam giữ.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Tri S giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và trình bày: Bị cáo chỉ vi phạm lỗi chạy xe quá tốc độ quy định, bị cáo không phạm tội chống người thi hành công vụ, hiện nay hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được cải tạo tại địa phương.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình sau khi phân tích nội dung vụ án, xét tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân cũng như nội dung kháng cáo của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 36/2021/HS-ST ngày 31/3/2021 của Tòa án nhân dân huyện HH, tỉnh Thái Bình về tội danh và hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Tri S.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được cải tạo tại địa phương.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Tri S: Khoảng 13 giờ 45 phút, ngày 04/11/2020, tại khu vực đường Thái Hà thuộc địa phận khu Đồng Tu 1, thị trấn HH, huyện HH, tỉnh Thái Bình, bị cáo Nguyễn Tri S có hành vi điều khiển xe ô tô tải biển kiểm soát 29C-832.63 (vi phạm lỗi tốc độ) nhưng không chấp hành hiệu lệnh dừng xe của Cảnh sát giao thông đang làm nhiệm vụ mà điều khiển xe ô tô lao thẳng về phía lực lượng Cảnh sát giao thông. Hậu quả làm đồng chí Nguyễn Văn N, cán bộ đội Cảnh sát giao thông trật tự Công an huyện HH ngã văng xuống đường, bị sây sát cánh tay phải, sây sát và bầm tím nhẹ hai đầu gối. Sau đó bị cáo S tiếp tục điều khiển xe ô tô bỏ chạy, khi bị quần chúng nhân dân và Tổ công tác dừng được xe, yêu cầu xuất trình giấy tờ bị cáo không chấp hành và có lời nói chửi tục, xúc phạm cán bộ dẫn đến Tổ công tác không thực hiện được nhiệm vụ xử lý vi phạm đối với bị cáo. Hành vi của bị cáo thể hiện ý thức chống đối, coi thường pháp luật, xâm phạm việc thực hiện nhiệm vụ của những người đang thi hành công vụ, xâm phạm hoạt động bình thường, đúng đắn của cơ quan nhà nước về quản lý hành chính trong lĩnh vực thi hành nhiệm vụ công và xâm phạm đến sức khỏe của người đang thi hành công vụ, gây mất trật tự trị an xã hội. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, quyết định xử phạt bị cáo 09 tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ” theo điểm b khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan. Vì vậy, yêu cầu kháng cáo của bị cáo không có cơ sở chấp nhận, cần giữ nguyên quyết định của án sơ thẩm về tội danh và hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Tri S như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp pháp luật.
[2] Về án phí: Kháng cáo của bị cáo Nguyễn Tri S không được chấp nhận, vì vậy bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Tri S. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 36/2021/HS-ST ngày 31/3/2021 của Tòa án nhân dân huyện HH, tỉnh Thái Bình về tội danh và hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Tri S.
2. Áp dụng: Khoản 1 Điều 330, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 50, Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Tri S 09 (chín) tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
3. Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí và lệ phí Tòa án:
Bị cáo Nguyễn Tri S phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án 29/6/2021./.
Bản án về tội chống người thi hành công vụ số 44/2021/HSPT
Số hiệu: | 44/2021/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về