Bản án về tội chống người thi hành công vụ số 30/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NINH HÒA, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 30/2022/HS-ST NGÀY 28/04/2022 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ

Ngày 28 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa tiến hành tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 10/2022/TLST-HS ngày 26 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2022/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần L – Sinh năm: 198 , tại Ninh Hòa, Khánh Hòa; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã P, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần H, sinh năm 1960 và bà: Trần T, sinh năm 1962; Chị em ruột: Trần Thị D, Trần Văn L; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 15/5/2020, bị Công an thị xã Ninh Hòa xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 178); Cố ý gây thương tích (Điều 134) theo Quyết định số 1211/QĐXPHC phạt tiền 6.000.000 đồng, ngày 25/5/2020 nộp phạt vi phạm hành chính. Ngày 25/8/2009 tại Bản án số 75/2009/HSST bị Tòa án nhân dân huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa xử phạt 04 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, ngày 30/10/2009 chấp hành xong. Ngày 02/8/2016 tại Bản án số 82/2016/HSST bị Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa xử phạt 03 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Ngày 26/9/2016 tại Bản án số 176/2016/HSPT bị Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa quyết định không chấp nhận kháng cáo của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt và cho hưởng án treo, y án đối với Bản án số 82/2016/HSST của Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa, ngày 30/01/2019 chấp hành xong. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giam Công an thị xã Ninh Hòa từ ngày 25/11/2021; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Huỳnh T – sinh năm 1996 Nơi cư trú: Thôn P, xã X, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.

2. Ông Lê N – sinh năm 2001 Nơi cư trú: Thôn V, xã X, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.

* Người làm chứng:

1. Bà Lê Thị B – sinh năm 1993 Nơi cư trú: Thôn B, xã P, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.

2. Bà Nguyễn Thị X– sinh năm 1957 Nơi cư trú: Thôn P, xã X, thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 17/7/2021, Trần L điều khiển xe mô tô chở Lê Thị B đi từ thôn P, xã X về nhà ở thôn Đ, xã P. Khi đến chốt kiểm soát dịch bệnh Covid- 19 đặt trên đoạn đường thuộc thôn P, xã X thì L lái xe mô tô tông vào rào chắn bảo vệ của Chốt làm xê dịch. Ông Lê N, Huỳnh T là dân quân xã X đang làm nhiệm vụ trực chốt phát hiện L có hành vi vượt chốt phong tỏa nên ra chặn xe mô tô và yêu cầu quay lại, nhưng L không chấp hành mà còn có hành vi đe dọa và lăng mạ ông N và T, sau đó L điều khiển xe vượt qua chốt đi về nhà. Khoảng 5 phút sau, L điều khiển xe mô tô quay lại chốt kiểm soát dịch, tiếp tục có lời nói thô tục chửi bới rồi xông vào dùng tay bóp cổ, xô đẩy tấn công làm ông T bị xay xát nhẹ thì được can ngăn nên L lên xe bỏ đi.

Tại bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa đã truy tố bị cáo Trần L về tội “Chống người thi hành công vụ”. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa vẫn giữ nguyên nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 330; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Trần L mức án từ 09 - 12 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là các ông Huỳnh T và ông Lê N đã được tống đạt hợp lệ nhưng đều vắng mặt nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét.

Bị cáo Trần L không có ý kiến tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo Trần L nói lời sau cùng: “Mong được xem xét giảm hình phạt cho bị cáo”.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt; xét thấy họ đã có lời khai trong hồ sơ vụ án, việc vắng mặt họ không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 vẫn tiến hành xét xử vụ án.

Quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã tuân thủ đúng và đầy đủ các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng trong vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Như vậy, các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. [2] Về nội dung vụ án:

Tại phiên tòa, bị cáo Trần L đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung Quyết định truy tố của Viện kiểm sát đã nêu. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, xét thấy có đủ căn cứ để kết luận: Hành vi của bị cáo Trần L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Chống người thi hành công vụ”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật Hình sự năm 2015. Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa đã truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Hành vi của bị cáo Trần L là nguy hiểm cho xã hội: bị cáo Trần L có hành vi vượt chốt phong tỏa, lái xe mô tô tông vào rào chắn bảo vệ thuộc thôn P, xã X làm xê dịch. Mặc dù, ông Lê N và ông Huỳnh T là dân quân xã X đang làm nhiệm vụ trực chốt ra chặn xe mô tô và yêu cầu quay lại, nhưng L không chấp hành mà còn có hành vi đe dọa và lăng mạ ông N và T, sau đó L điều khiển xe vượt qua chốt đi về nhà; thời gian 5 phút sau, bị cáo L điều khiển xe mô tô quay lại chốt kiểm soát dịch, tiếp tục có lời nói thô tục chửi bới rồi xông vào dùng tay bóp cổ, xô đẩy tấn công làm ông T bị xay xát nhẹ thì được can ngăn nên bị cáo L lên xe bỏ đi. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến việc thực hiện nhiệm vụ của người đang thi hành công vụ; xâm phạm đến hoạt động của nhà nước về quản lý hành chính trong lĩnh vực bảo vệ trật tự công cộng cần phải xử lý nghiêm khắc.

Bản thân bị cáo đã nhiều lần bị xử phạt tù, có nhân thân xấu nhưng bị cáo không tự rút ra bài học kinh nghiệm cho bản thân. Điều đó cho thấy bị cáo rất coi thường pháp luật và các biện pháp giáo dục, cải tạo không có tác dụng đối với bị cáo. Do vậy, xét thấy cần phải áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo; cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo thấy được tính nghiêm minh của pháp luật mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung tội phạm.

Tuy nhiên, xét thấy tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo thành người có ích cho xã hội, sớm trở về với gia đình. Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định nêu trên nên cần chấp nhận.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là các ông Huỳnh T và ông Lê N đã được tống đạt hợp lệ nhưng đều vắng mặt nên Hội đồng xét xử không xét.

[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[5] Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 330; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Trần L;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Xử phạt:

- Bị cáo Trần L 09 (Chín) tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 25/11/2021).

Về án phí: Buộc bị cáo Trần L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội chống người thi hành công vụ số 30/2022/HS-ST

Số hiệu:30/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về