Bản án về tội chống người thi hành công vụ số 238/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 238/2020/HS-ST NGÀY 21/10/2020 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ

Ngày 21 tháng 10 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 235/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2020, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 240/QĐXXST-HS ngày 09/10/2020 đối với các bị cáo:

1. Vũ Văn N, sinh năm 1978; Tên gọi khác: Vũ Hải N; Hộ khẩu thường trú và nơi ở: Tổ 3 phường Y, Thành phố Y, tỉnh Yên Bái; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Vũ Hải Đ, sinh năm 1953 và bà Lê Thị T, sinh năm 1956; Có vợ là: Lê Thị Kim T, sinh năm 1980 và có 01 con, con sinh năm 2012; Tiền án, tiền sự theo Danh chỉ bản số 000000427 lập ngày 9/7/2020 tại Công an quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội và lý lịch cá nhân, bị cáo Nam có một bản án năm 2004 bị Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái xử 04 năm tù về tội Cướp tài sản, ra trại ngày 30/8/2006, đã được xóa án tích.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/7/2020, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số X Công an thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

2. Hoàng Văn H, sinh năm 1977; Hộ khẩu thường trú và nơi ở: Tổ 12 thị trấn Y, huyện Y, tỉnh Yên Bái; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 9/12; Dân tộc: Nùng; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Hoàng Ngọc T, sinh năm 1935 và bà Nguyễn Thị M, đã chết; Có vợ là: Ngô Thị Hồng N, sinh năm 1983 và có 03 con, con thứ nhất sinh năm 2005, con thứ hai sinh năm 2011, con thứ ba sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự theo Danh chỉ bản số 000000423 lập ngày 8/7/2020 tại Công an quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội và lý lịch cá nhân, bị cáo H có một bản án năm 2004 bị Tòa án nhân dân huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái xử 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cố ý gây thương tích”, đã được xóa án tích.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/7/2020, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

3. Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1981; Hộ khẩu thường trú và nơi ở: Tổ 1 phường Y, thành phố Y, tỉnh Yên Bái; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch:

Việt Nam; Con ông: Nguyễn Hữu C, sinh năm 1954 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1952; Có vợ là: Bùi Thị Hồng N, sinh năm 1981 và có 01 con, con sinh năm 2003; Tiền án, tiền sự theo Danh chỉ bản số 000000435 lập ngày 8/7/2020 tại Công an quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội và lý lịch cá nhân, bị cáo T không có tiền sự, tiền án.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/7/2020, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số X Công an thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

4. Đào Xuân H1, sinh năm 1983; Hộ khẩu thường trú và nơi ở: Thôn 6, xã V, huyện T, tỉnh Yên Bái; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Đào Văn K, sinh năm 1957 và bà Mai Thị V, sinh năm 1960; Có vợ là: Đoàn Thị Y, sinh năm 1985 và có 02 con, con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự theo Danh chỉ bản số 000000432 lập ngày 8/7/2020 tại Công an quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội và lý lịch cá nhân, bị cáo H1 không tiền sự, tiền án.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/7/2020, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số X Công an thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1, Lưu Ngọc A, sinh năm: 1995; HKTT: Xóm 4, xã N, huyện N, tỉnh Thanh Hóa, vắng mặt.

2. Anh Trương Duy B, sinh năm 1991; HKTT: Tổ 28 phường Mai Dịch, quận Cầu Giấy, Hà Nội, vắng mặt.

3. Anh Đào Đăng H2, sinh năm 1993; HKTT: Tổ dân phố 17, phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 0h25 ngày 05/7/2020, tại khu vực trước cửa nhà số 90 ngõ 63 đường L. Đ. T, phường M 2, quận N, Hà Nội, Vũ Văn N, Nguyễn Ngọc T, Hoàng Văn H và Đào Xuân H1 đã có hành vi xô xát với Lưu Ngọc A. Nhận được tin báo các đồng chí Trương Duy B và Đào Đăng H2 là cán bộ công an phường M 2 quận N đến đưa Ngọc A lên xe ô tô và yêu cầu những người có liên quan về trụ sở để giải quyết nhưng N, T, H và H1 không chấp hành tiếp tục có hành vi đánh Ngọc A. T có hành vi giữ và kéo tay đồng chí B để các đối tượng tiếp tục đánh Ngọc A gây cản trở việc thực hiện nhiệm vụ. Ban chỉ huy công an phường M 2 đã cử đồng chí Lê Xuân C xuống hỗ trợ bắt giữ các đối tượng, thu giữ vật chứng là 01 chiếc gậy tre dài khoảng 1,5 mét; 01 chiếc xẻng lưỡi xúc bằng kim loại, cán bằng gỗ bị gãy và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max màu xanh.

Quá trình điều tra xác định: Khoảng 00 giờ ngày 05/7/2020, Vũ Văn N đang đi bộ tại đường làng P, phường M 2, quận N, Hà Nội thì bị Lưu Ngọc A (sinh năm: 1995; HKTT: xã N, huyện N, Thanh Hóa) bất ngờ dùng 01 chiếc xẻng vụt vào người N nên giữa N và Ngọc A giằng co, xô xát, Ngọc A tiếp tục cầm xẻng đuổi đánh N. Lúc này Nguyễn Ngọc T gọi điện cho N thì N bảo bị người khác đánh. Ngay sau đó, T cùng Đào Xuân H1, Hoàng Văn H đi từ phòng trọ tại số 90 ngõ 63 L. Đ. T, phường M 2, quận N, Hà Nội xuống. Nhận được tin báo của quần chúng nhân dân lực lượng Công an phường M 2 gồm đồng chí: Trương Duy B (sinh năm 1991, HKTT: Tổ 28 phường M, quận C, Hà Nội) và Đào Đăng H2 (sinh năm 1993, HKTT: Tổ dân phố 17, phường T, N, Hà Nội) mặc quân phục công an nhân dân đến để giải quyết vụ việc, đưa Ngọc A lên xe ô tô của Công an phường đồng thời mời những người có liên quan đến trụ sở Công an phường để làm rõ tuy nhiên N, T, H1, H không chấp hành yêu cầu của lực lượng chức năng. H1 tiếp tục lấy 01 khúc gậy tre dài 1,5 mét dùng tay phải vụt về phía Ngọc A tuy nhiên không trúng thì bị đồng chí H2 tước gậy khỏi tay H1. H nhảy lên thùng xe dùng tay, chân và cùi chỏ đánh nhiều cái trúng vùng đầu lưng của Ngọc A, T đứng dưới xe dùng tay phải đấm nhiều cái vào mặt Ngọc A. Khi 02 đồng chí Công an phường tiếp tục can ngăn thì T dùng tay giữ và kéo tay của đồng chí B ra để H, H1, T tiếp tục dùng chân tay để đánh Ngọc A. N nhảy lên thùng xe và dùng chân, tay đấm, đá nhiều lần vào vùng đầu, mặt lưng của Ngọc A làm đồng chí B và đồng chí H2 không thực hiện được nhiệm vụ. Đến khoảng 0h25 phút ngày 05/7/2020, ban chỉ huy Công an phường đã cử đồng chí Lê Xuân C (sinh năm 1995, HKTT: Tổ 13, M 2, N, Hà Nội) là cán bộ công an phường xuống phối hợp cùng đồng chí H2 và đồng chí B khống chế bắt giữ các đối tượng.

Tại cơ quan điều tra, Vũ Văn N, Nguyễn Ngọc T, Hoàng Văn H và Đào Xuân H1 khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên, lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Trong quá trình xô xát, Vũ Văn N bị 01 vết thương vùng đầu chếch bên phải, 01 vết thương khuỷu tay phải. Ngày 14/8/2020, Vũ Văn N có đơn xin từ chối giám định tỷ lệ thương tật và không yêu Lưu Ngọc A bồi thường về dân sự. Lưu Ngọc A bị chảy máu mũi và tai bên trái, bầm tím mắt phải. Ngày 15/7/2020, Lưu Ngọc A có đơn xin từ chối giám định tỷ lệ thương tật và không yêu cầu những người đã gây thương tích cho Ngọc A phải bồi thường về dân sự.

Đối với hành vi của Lưu Ngọc A đánh gây thương tích cho Vũ Văn N. Ngày 27/8/2020, Công an quận Nam Từ Liêm đã ra quyết định xử lý vi phạm hành chính đối với Ngọc A về hành vi xâm hại đến sức khỏe của người khác theo quy định tại khoản 3 điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP của Chính phủ với mức phạt là 3.000.000 đồng.

Đối với hành vi của Vũ Văn N, Nguyễn Ngọc T, Hoàng Văn H và Đào Xuân H1 đánh gây thương tích cho Lưu Ngọc A. Ngày 27/8/2020, Công an quận Nam Từ Liêm đã ra quyết định xử lý vi phạm hành chính đối với N, T, H và H1 về hành vi xâm hại đến sức khỏe của người khác theo quy định tại khoản 3 điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP của Chính phủ với mức phạt đối với N là 2.000.000 đồng, đối với T, H và H1 là 2.500.000 đồng.

Đối với chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max màu xanh ngày 17/7/2020, Cơ quan điều tra đã tiến hành trao trả cho anh Lưu Ngọc A chiếc điện thoại trên. Sau khi nhận lại tài sản anh Ngọc A không yêu cầu đề nghị gì.

Bản cáo trạng số 236/CT-VKS ngày 24/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố các bị cáo Vũ Văn N, Hoàng Văn H, Nguyễn Ngọc T, Đào Xuân H1 về tội “Chống người thi hành công vụ” theo quy định tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa, các bị cáo Vũ Văn N, Hoàng Văn H, Nguyễn Ngọc T, Đào Xuân H1 đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại Cơ quan điều tra, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội Chống người thi hành công vụ như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố là đúng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm trong phần luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố tại bản Cáo trạng số 236/CT-VKS ngày 24/9/2020 và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 330, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự 2015. Xử phạt: Bị cáo Vũ Văn N từ 12 đến 15 tháng tù, bị cáo Hoàng Văn H từ 12 đến 15 tháng tù, bị cáo Nguyễn Ngọc T từ 9 đến 12 tháng tù, bị cáo Đào Xuân H1 từ 9 đến 12 tháng tù. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc gậy tre dài khoảng 1,5 mét; 01 chiếc xẻng lưỡi xúc bằng kim loại, cán bằng gỗ bị gãy.

Lời nói sau cùng các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người liên quan, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, sơ đồ hiện trường, biên bản thu giữ vật chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án mà Cơ quạn điều tra đã thu thập được đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 0h25 ngày 05/7/2020, tại khu vực trước cửa nhà số 90 ngõ 63 đường L.

Đ. T, phường M 2, quận N, Hà Nội, Vũ Văn N, Nguyễn Ngọc T, Hoàng Văn H và Đào Xuân H1 đã có hành vi xô xát với Lưu Ngọc A. Mặc dù biết các đồng chí Trương Duy B, Đào Đăng H2 là cán bộ Công an phường M 2 quận N đến đưa Ngọc A lên xe ô tô và yêu cầu những người có liên quan về trụ sở để giải quyết nhưng N, T, H và H1 không chấp hành, T có hành vi giữ và kéo tay đồng chí B để các đối tượng tiếp tục nhảy lên xe oto đánh Ngọc A, cản trở việc thực hiện nhiệm vụ của các đồng chí Công an.

Hành vi của các bị cáo đã phạm tội “Chống người thi hành công vụ” theo quy định tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật hình sự 2015. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến hoạt động của Cơ quan Nhà Nước về quản lý hành chính trong lĩnh vực thi hành nhiệm vụ công, ảnh hưởng đến sức khỏe của người khác cũng như gây mất trật tự trị an xã hội, gây bất bình trong trong quần chúng nhân dân nên cần phải xử lý nghiêm, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

Đây là vụ án có nhiều bị cáo tham gia xong hành vi của các bị cáo chỉ mang tính bột phát, nhất thời phạm tội, không có sự bàn bạc từ trước nên các bị cáo đều giữ vai trò như nhau trong vụ án.

Khi lượng hình phạt xét: Đối với bị cáo N, bị cáo H có nhân thân xấu, bị cáo T, bị cáo H1 nhân thân chưa có tiền án tiền sự. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Đối với bị cáo N, bị cáo H1 nhân có ông bà, bố là người có công với cách mạng được tặng thưởng Huân, Huy chương nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo N và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án, không yêu cầu bồi thường dân sự nên không đặt ra xem xét.

[5] Về vật chứng vụ án: Một chiếc gậy tre dài khoảng 1,5 mét; Một chiếc xẻng lưỡi xúc bằng kim loại, cán bằng gỗ bị gãy là công cụ dùng vào việc phạm tội không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

[6] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, các bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 330; điểm s khoản 1, (khoản 2 riêng đối với Vũ Văn N, Đào Xuân H1) Điều 51, Điều 38, Điều 47, Điều 58 Bộ luật hình sự 2015; Điều 106, Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333, Điều 337 và Điều 338 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Tuyên bố các bị cáo Vũ Văn N, Hoàng Văn H, Nguyễn Ngọc T, Đào Xuân H1 phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.

Xử phạt bị cáo Vũ Văn N 7 (bảy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 5/7/2020.

Xử phạt bị cáo Hoàng Văn H 7 (bảy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 5/7/2020. Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T 6 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 5/7/2020. Xử phạt bị cáo Đào Xuân H1 6 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 5/7/2020. Vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu hủy một chiếc gậy tre dài khoảng 1,5 mét;

một chiếc xẻng lưỡi xúc bằng kim loại, cán bằng gỗ bị gãy hiện Chi cục Thi hành án dân sự quận N đang quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng số 232 ngày 25/9/2020.

Các bị cáo Vũ Văn N, Hoàng Văn H, Nguyễn Ngọc T, Đào Xuân H1 mỗi bị cáophải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội chống người thi hành công vụ số 238/2020/HS-ST

Số hiệu:238/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về