TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 174/2021/HS-ST NGÀY 08/10/2021 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
Ngày 08 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai (theo thủ tục rút gọn) vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 175/2021/TLST-HS ngày 24 tháng 9 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 222/2021/QĐXXST-HS ngày 04/10/2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lâm Đình B, sinh năm 1990. Tại: Bình Dương. Nơi ĐKHKTT: phường P, thành phố M, tỉnh Bình Dương. Trình độ học vấn: 7/12. Nghề nghiệp: Không; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Lâm Văn H và bà Trần Thị Kim P; Vợ: Dương Thị Mỹ K (đã ly hôn), có 01 con sinh năm 2018. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 17/7/2006, Tòa án nhân dân thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xử phạt 03 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Đánh bạc” theo bản án hình sự sơ thẩm số 80/2006/HSST; Ngày 06/8/2012, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xử phạt số tiền 25.000.000 đồng về tội “Đánh bạc” theo bản án hình sự sơ thẩm số 194/2012/HSST; Ngày 26/11/2013, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xử phạt 03 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo bản án hình sự sơ thẩm số 261/2013/HSST; Ngày 22/01/2019, Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo bản án hình sự sơ thẩm số 14/2019/HSST; Ngày 03/8/2011, Trưởng công an thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xử phạt số tiền 1.000.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Ngày 19/9/2021, Trưởng công an thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xử phạt số tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy theo quyết định số 83/QĐ- XPHC. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 27/8/2021 và tạm giam cho đến nay; Có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Lê Mạnh C, sinh năm:
1990. Địa chỉ: Tiểu đoàn cảnh sát cơ động số 3, Trung đoàn cảnh sát cơ động ĐNB, Bộ tư lệnh cảnh sát cơ động; Vắng mặt.
Người làm chứng: Thiều Tấn H1 (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 07 giờ ngày 27/8/2021, trong lúc Lâm Đình B (tên thường gọi B Nhóc) đang ở khu vực phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương thì B nhận được điện thoại của người bạn thông báo là đã có hàng nhu yếu phẩm mà B đã đặt mua. Lúc này, do B không đem theo tiền nên B điều khiển xe ô tô nhãn hiệu Mercedes C200, màu đen, biển số 61A-624.xx đi về nhà tại phường P, thành phố M, tỉnh Bình Dương để lấy tiền. Khi B điều khiển xe ô tô đi đến Chốt kiểm soát dịch Covid-19 đặt tại giao lộ đường TĐ với Đại lộ BD, đoạn qua phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương thì đồng chí Thượng uý Lê Mạnh C, sinh năm 1990, là chiến sỹ Tiểu đoàn Cảnh sát Cơ động số 3, Trung đoàn Cảnh sát Cơ động ĐNB, Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động đang làm nhiệm vụ kiểm soát tại chốt kiểm dịch Covid-19 nêu trên thấy xe ô tô của B đi qua chốt nên ra hiệu lệnh dừng xe thì B không chấp hành mà chỉ ló đầu ra cửa kính nói “Tao đi làm từ thiện” rồi B tiếp tục điều khiển xe bỏ chạy. Liền đó, đồng chí C sử dụng xe công vụ đuổi theo và ra hiệu lệnh dừng xe nhưng B không chấp hành mà vẫn bỏ chạy tiếp rồi rẽ trái vào đường HVL thì gặp Chốt kiểm soát dịch Covid-19 tại đầu đường HVL (đoạn tiếp giáp với đường Đại lộ BD), đoạn qua phường P, thành phố M, tỉnh Bình Dương. Lúc này, Lực lượng kiểm soát tại đây ra hiệu lệnh yêu cầu B dừng xe lại thì cùng lúc này, đồng chí C cũng truy đuổi đến nơi và yêu cầu B ra khỏi xe tô tô và xuất trình giấy tờ. Tuy nhiên, khi B xuống xe thì B không xuất trình giấy tờ và không đeo khẩu trang nên đồng chí C liền nhắc nhở B thì B đã nhiều lần dùng lời lẽ thô tục để chửi và đe dọa “Giết” đồng chí C và “Giết” cả gia đình đồng chí C. Ngoài ra, B còn dùng tay kéo khẩu trang của đồng chí C xuống.
Nhận thấy, đối tượng B thực hiện hành vi có dấu hiệu phạm tội chống người thi hành công vụ, quy định tại Điều 330 Bộ luật Hình sự nên Công an phường P đã phối hợp với Lực lượng kiểm soát dịch khống chế và lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với B về hành vi chống người thi hành công vụ, đồng thời thu giữ số vật chứng, gồm: 01 (một) chiếc xe ô tô nhãn hiệu Mercedes C200, màu đen, biển số 61A-624.xx và 01 (một) chiếc chìa khoá xe ô tô biển số 61A-624.xx. Cùng ngày 27/8/2021, Công an phường P đã chuyển hồ sơ vụ việc và đối tượng Lâm Đình B đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương để tiếp nhận, điều tra theo thẩm quyền.
Quá trình làm việc tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một thì Lâm Đình B đã khai nhận: Ngày 26/8/2021, B đã sử dụng trái phép chất ma tuý tại địa chỉ số x, đường số a, Khu dân cư H, phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương nên Cơ quan điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một đã tiến hành đưa B đi test nhanh và cho kết quả dương tính với ma túy đá (loại Methamphetamine) và ma túy tổng hợp (Ketamine). Đồng thời, cùng ngày 27/8/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của B, tại địa chỉ số số x, đường số a, Khu dân cư H, phường H, thành phố M phát hiện và thu giữ số vật chứng, gồm:
- 01 (một) chiếc điện thoại di động Nokia, Model TA-1139, màu đen (không có sim và không kiểm tra tình trạng sử dụng).
- 01 (một) chiếc điện thoại di động Nokia, Model TA-1030, màu cam (không có sim và không kiểm tra tình trạng sử dụng).
- 01 (một) quyển lịch năm 2020, đã qua sử dụng, bên trong có nội dung ghi chép nhật ký chi tiêu đóng tiền.
- 03 (ba) Giấy mượn xe đề ngày 04/8/2021; ngày 21/8/2021 và ngày 22/8/2021 có chữ ký của Lâm Đình B.
- 01 (một) quyển sổ tay màu nâu, kích thước 18 x 10 cm, bên trong có ghi nội dung về việc vay mượn tiền và có chữ ký của Lâm Đình B.
- 01 (một) quyển sổ tay màu đen, kích thước 17 x 20 cm, bên trong có ghi nội dung về việc vay mượn tiền và có chữ ký của Lâm Đình B.
- 01 (một) quyển hợp đồng cầm đồ đã ghi nội dung, kích thước 20 x 17 cm, có chữ ký của Lâm Đình B.
- 01 (một) tờ giấy A4 có ghi thông tin của các đương sự Nguyễn Thành D và Trần Quốc T.
- 09 (chín) tờ tiền mệnh giá 500.000 (năm trăm nghìn) đồng.
Đối với 01 (một) chiếc xe ô tô nhãn hiệu Mercedes C200, màu đen, biển số 61A- 624.xx và 01 (một) chiếc chìa khoá xe ô tô biển số 61A-624.xx thu giữ của Lâm Đình B.
Do đây là những vật chứng liên quan đến vụ án trộm cắp tài sản, quy định tại khoản 4 Điều 173 Bộ luật Hình sự nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một đã tách ra để khởi tố vụ án, khởi tố bị can để xử lý trong một vụ án khác nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một không đặt ra xem xét, giải quyết.
Đối với các vật chứng thu giữ tại nơi ở của Lâm Đình B, gồm: 01 (một) chiếc điện thoại di động Nokia, Model TA-1139, màu đen (không có sim và không kiểm tra tình trạng sử dụng); 01 (một) chiếc điện thoại di động Nokia, Model TA-1030, màu cam (không có sim và không kiểm tra tình trạng sử dụng); 01 (một) quyển lịch năm 2020, đã qua sử dụng, bên trong có nội dung ghi chép nhật ký chi tiêu đóng tiền; 03 (ba) Giấy mượn xe đề ngày 04/8/2021; ngày 21/8/2021 và ngày 22/8/2021 có chữ ký của Lâm Đình B; 01 (một) quyển sổ tay màu nâu, kích thước 18 x 10 cm, bên trong có ghi nội dung về việc vay mượn tiền và có chữ ký của Lâm Đình B; 01 (một) quyển sổ tay màu đen, kích thước 17 x 20 cm, bên trong có ghi nội dung về việc vay mượn tiền và có chữ ký của Lâm Đình B; 01 (một) quyển hợp đồng cầm đồ đã ghi nội dung, kích thước 20 x 17 cm, có chữ ký của Lâm Đình B; 01 (một) tờ giấy A4 có ghi thông tin của các đương sự Nguyễn Thành D và Trần Quốc T; 09 (chín) tờ tiền mệnh giá 500.000 (năm trăm nghìn) đồng. Xét thấy đây là những tài liệu, vật chứng liên quan đến hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự của Lâm Đình B cùng đồng phạm. Do đó, ngày 29/8/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một đã tách các tài liệu, vật chứng nêu trên để tiến hành phân công điều tra, xác minh trong một vụ việc tin báo khác.
Tại Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 179/QĐ-VKS-HS ngày 23/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo Lâm Đình B về tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 330 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một trong phần tranh luận, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 330; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Lâm Đình B mức hình phạt từ 01 năm 09 tháng tù đến 02 năm tù.
Về biện pháp tư pháp: Không đề nghị xử lý.
Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là phù hợp với quy định của pháp luật.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can cùng những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Ngày 27/8/2021, Lâm Đình B có hành vi không chấp hành hiệu lệnh dừng xe của lực lượng cảnh sát cơ động đang trực tại chốt kiểm soát dịch Covid-19, sau khi bị đuổi theo giữ lại thì có hành vi giật, kéo khẩu trang của đồng chí Lê Mạnh C đồng thời dùng lời nói đe dọa lực lượng chức năng. Do đó, hành vi mà bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Chống người thi hành công vụ” được quy định tại khoản 1 Điều 330 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[3] Hành vi mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của Nhà nước, cản trở người thi hành công vụ trong việc giữ gìn trị an tại địa phương. Về nhận thức, bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì bản tính hung hăng, xem thường sự trừng phạt của pháp luật nên đã thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Hiện nay, tình hình dịch bệnh Covid-19 đang diễn biến phức tạp; Đảng, Nhà nước áp dụng nhiều biện pháp để ngăn ngừa dịch bệnh trong đó có giãn cách xã hội nhằm giảm sự lây lan. Bản thân bị cáo lẽ ra phải ý thức được điều đó và chấp hành nghiêm nhưng vì mục đích cá nhân mà thực hiện hành vi phạm tội, quá trình vượt chốt kiểm soát còn dùng nhiều lời lẽ hăm dọa lực lượng chức năng, thể hiện sự xem thường pháp luật. Do đó, để có tác dụng giáo dục bị cáo đồng thời nhằm đấu tranh phòng chống tội phạm chung, cần có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.
[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
[6] Căn cứ vào nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ cũng như tính chất nguy hiểm cho xã hội mà bị cáo thực hiện, xét mức hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.
[7] Về biện pháp tư pháp: Không có.
[8] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 136, 260, 331, 333, 462, 463 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1/ Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Lâm Đình B phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.
2/ Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 330; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Lâm Đình B 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/8/2021.
3/ Về biện pháp tư pháp: Không có.
4/ Về án phí: Buộc bị cáo nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đực quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án đực niêm yết công khai
Bản án về tội chống người thi hành công vụ số 174/2021/HS-ST
Số hiệu: | 174/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/10/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về