Bản án về tội chống người thi hành công vụ số 103/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 103/2021/HS-PT NGÀY 22/06/2021 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ

Ngày 22 tháng 6 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tây N1 xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 61/2021/TLPTHS ngày 12 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo Lê Văn G do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 09/2021/HS-ST ngày 05/2/2021 của Tòa án nhân dân huyện Châu T1h, tỉnh Tây N1.

Bị cáo kháng cáo:

Lê Văn G, sinh năm: 1978, tại: tỉnh Tây N1; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chổ ở hiện nay: ấp Phước L, xã Phước V, huyện Châu T1, tỉnh Tây N1; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn D và bà Nguyễn Thị R; vợ Lê Ngọc Y; con: có 02 người; tiền án; Chưa có; tiền sự: Chưa có. Bị cáo bị tạm giam ngày 09/01/2021, tạm giam ngày 12/01/2021 cho đến nay. (Có mặt) Ngoài ra trong vụ án còn có 02 người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, kháng nghị nên tòa không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội Dng vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ 30 phút, ngày 08/01/2021, tổ tuần tra kiểm soát giao thông gồm đồng chí Võ Văn Đ, cán bộ cảnh sát giao thông Công an huyện Châu T1h làm tổ trưởng, điều khiển xe mô tô đặc chủng biển số 70A1-000.62 chở đồng chí Trần Minh T2, công an viên xã Phước V làm nhiệm vụ tuần tra. Khi tuần tra kiểm soát đến đoạn đường thuộc ấp Phước Lập, xã Phước V, đồng chí Đ phát hiện xe mô tô biển số 51Z5-5624 do Lê Văn G điều khiển có biểu hiện say xỉn và nẹt bô nên yêu cầu dừng xe kiểm tra. G bỏ xe đi vào vườn cao su và dùng lời lẽ thô tục chửi mắng tổ công tác. Khi Đ và T2 kéo xe mô tô của G lên lề đường thì G quay lại dùng chân đạp xe không cho đưa lên. Sau khi xe được đưa lên lề đường, Đ tiếnhành lập biên bản vi phạm hành chính thì G dùng tay đánh nhằm không cho Đ lập biên bản nhưng Đ tránh được nên không trúng. G tiếp tục lời lẽ thô tục chửi mắng. Anh T2 dùng điện thoại quay phim lại sự việc thì G cầm mũ bảo hiểm bằng tay phải đánh vào đầu của T2. Tổ công tác khống chế giữ G lại thì G xin thả ra để đi vệ sinh. Nhưng G không đi vệ sinh mà cởi áo khoát và quần dài, kéo quần xuống để lộ bộ phận sinh dục nhằm mục đích bôi nhọ tổ công tác.

Kết quả kiểm tra nồng độ cồn khí thở đối với Lê Văn G vào lúc 18 giờ 36 phút ngày 08/01/2021 là 0,203mg/Lkhí thở.

Về vật chứng: Thu giữ 01 mũ bảo hiểm màu trắng, trên mũ có dòng chữ SCTV, bị mất phần mũi nón.

Về bồi thường thiệt hại: Trần Minh T2 yêu cầu G bồi thường 2.000.000 đồng tiền chi phí khám và điều trị bệnh. G chưa bồi thường.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 09/2021/HS-ST ngày 05/02/2021 của Tòa án nhân dân huyện Châu T1h, tỉnh Tây N1 đã xử:

Tuyên bố bị cáo Lê Văn G phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.

Áp dụng khoản 1 Điều 330; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Bị cáo Lê Văn G 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt từ tính từ ngày 09/01/2021.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về các biện pháp tư pháp, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 11 tháng 02 năm 2021, bị cáo Lê Văn G có đơn kháng cáo, nội Dng xin được giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây N1 đề nghị: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Lê Văn G. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo không tranh luận.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội Dng vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Xét các hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng của cấp sơ thẩm đều hợp pháp. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Văn G xác định trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử vụ án tại cấp sơ thẩm không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng của cấp sơ thẩm.

[2] Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo Lê Văn G xin được giảm hình phạt:

2.1. Về tội danh: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo G thừa nhận hành vi phạm tội “Chống người thi hành công vụ”. Xét lời nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang cùng các tài chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ kết luận: Vào ngày 08/01/2021, tổ tuần tra do anh Võ Văn Đ và anh Trần Minh T2 thực hiện nhiệm vụ theo kế hoạch của Công an huyện Châu T1h tiến hành tuần tra kiểm soát trên tuY đường thuộc ấp Phước Lập, xã Phước V thì phát hiện G điều khiển xe mô tô nẹt bô và có biểu hiện say xỉn nên ra tín hiệu dừng xe, G không chấp hành dừng xe mà ngã xe, không hợp tác, dùng lời lẽ thô tục chửi mắng và có hành vi bôi nhọ tổ công tác. Bị cáo G đã dùng mũ bảo hiểm đánh vào đầu của anh Trần Minh T2.

2.2. Bản án Hình sự sơ thẩm số: 09/2021/HS-ST ngày 05/02/2021 của Tòa án nhân dân huyện Châu T1h, tỉnh Tây N1 xét xử bị cáo Lê Văn G về tội “Chống người thi hành công vụ” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 330 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, không oan.

[3] Vụ án mang tính chất ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm vào hoạt động đúng đắn của Cơ quan Nhà nước trong lĩnh vực quản lý hành chính. Hành vi của bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an N1 trật tự ở địa phương cần phải xử nghiêm khắc đối với bị cáo nhằm răn đe giáo dục phòng ngừa chung.

[4] Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ theo quy định của pháp luật, xử phạt bị cáo mức án 09 (chín) tháng tù là tương xứng với tính chất và mức độ phạm tội của bị cáo gây ra.

[5] Xét kháng cáo của bị cáo thì thấy rằng: Bị cáo G kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp chứng cứ mới nên không có căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[6] Về án phí: Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, do kháng cáo của bị cáo G không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

[7] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

2. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Lê Văn G.

3. Giữ nguyên Bản án Hình sự sơ thẩm số: 09/2021/HS-ST ngày 05/02/2021 của Tòa án nhân dân huyện Châu T1h, tỉnh Tây N1.

Căn cứ khoản 1 Điều 330; điểm i, s khoản 1 Điều 51và Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Văn G 09 (chín) tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”. Thời hạn chấp hành hình phạt từ tính từ ngày 09/01/2021.

4. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo G phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.

6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

304
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội chống người thi hành công vụ số 103/2021/HS-PT

Số hiệu:103/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về