TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 72/2024/HS-ST NGÀY 05/02/2024 VỀ TỘI CHO VAY LÃI NẶNG TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ
Ngày 05 tháng 02 năm 2024, tại tại sở Tòa án nhân dân tỉnh S xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 74/2024/TLST-HS ngày 08 tháng 01 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 68/2024/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:
Nguyễn Ngọc S, tên gọi khác: Không, sinh ngày 10/8/1986 tại huyện T, Thành phố Hà Nội. Nơi thường trú: Thôn Đ, xã N, huyện T, Thành phố Hà Nội; Nơi ở hiện tại: Số F đường N, tổ I, phường Q, thành phố S, tỉnh S; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Nguyễn Đình T và bà Nguyễn Thị T1; có vợ là Lò Thị C và 02 con (con lớn sinh năm 2019, con nhỏ sinh năm 2021). Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Tại Bản án số 131/2005/HSST ngày 13/12/2005, Tòa án nhân dân thị xã S, tỉnh S xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc S 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Cưỡng đoạt tài sản; Bản án số 42/2011/HSST ngày 19/01/2011, Tòa án nhân dân thành phố S xử phạt tiền 7.000.000 đồng về tội Đánh bạc; Bản án số 75/2014/HSST ngày 27/3/2014, Tòa án nhân dân thành phố S, tỉnh S xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy; Ngày 09/10/2013 Nguyễn Ngọc S bị Công an thành phố S, tỉnh S xử phạt hành chính về tội Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; Ngày 19/8/2021 bị Ủy ban nhân dân thành phố S xử phạt hành chính số tiền 10.000.000 đồng về tội Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.
Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/10/2023 đến ngày 20/10/2023, bị cáo tại ngoại, bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Lò Thị Đ, sinh năm 1972; Địa chỉ: Bản C, phường C, thành phố S, tỉnh S. Có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Người làm chứng:
+ Anh Lại Hoàng S1, sinh năm 1986; Nơi ở hiện tại: Tổ H, phường Q, thành phố S, tỉnh S. Có mặt.
+ Anh Đoàn Tất T2, sinh năm 1992; trú tại: Xóm B, tiểu khu A, thị trấn H, huyện M, tỉnh S. Nơi ở hiện tại: số H đường N, tổ I, phường Q, thành phố S, tỉnh S. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bà Lò Thị Đ mở nhà hàng P, chuyên kinh doanh dịch vụ ăn uống tại bản C, phường C, thành phố S. Khoảng cuối năm 2022, bà Đ quen Nguyễn Ngọc S do S đến nhà hàng của bà Đ ăn cơm. Bà Đ đã vay tiền S nhiều lần để kinh doanh; trả tiền gốc và lãi cho S nhiều lần nhưng không nhớ được diễn biến cụ thể của các lần vay. Đến khoảng tháng 02/2023, bà Đ còn đang nợ S số tiền 12.000.000 đồng là tiền lãi của những khoản vay trước đó. Do cần tiền để kinh doanh nhà hàng nên bà Lò Thị Đ tiếp tục hỏi vay tiền của Nguyễn Ngọc S. S đồng ý cho bà Đ vay tiền ở hai thời điểm khác nhau, không yêu cầu thế chấp hay cầm cố tài sản. S cho bà Đ vay tiền với lãi suất vượt quá mức lãi suất cao nhất theo quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự từ 11,6 - 18,25 lần và thu lợi bất chính số tiền 192.538.904 đồng. Do bận việc cá nhân, Nguyễn Ngọc S nhờ Lại Hoàng S1 trú tại tổ H, phường Q, thành phố S nhận tiền bà Đ trả qua tài khoản và Đoàn Tất T2 trú tại tiểu khu A, thị trấn H, huyện M thực hiện đòi nợ giúp một số lần. Cụ thể:
Ngày 10/02/2023, S1 cho bà Đ vay 131.000.000 đồng, thoả thuận lãi suất phải trả là 25.000.000 đồng/30 ngày (tương đương 232,19 % /01 năm = 11,6 lần lãi suất cao nhất theo quy định), thời gian vay tính từ ngày 10/02/2023 đến khi thanh toán xong tiền gốc và lãi phải trả, chu kỳ cứ 30 ngày trả lãi một lần. Ngày 23/02/2023, S1 cho bà Đ vay 40.000.000 đồng thoả thuận lãi suất phải trả là 4.000.000 đồng/10 ngày (tương đương 365% /01 năm = 18,25 lần lãi suất cao nhất theo quy định), thời gian vay tính từ ngày 23/02/2023 đến khi thanh toán xong tiền gốc và lãi phải trả, chu kỳ cứ 10 ngày trả lãi một lần.
Ngày 10/3/2023, bà Đ thoả thuận đến ngày 18/3/2023 trả cho S1 88.000.000 đồng, S1 và bà Đ đã chốt trước với nhau số tiền bà Đ nợ S1 là: 124.000.000 đồng. Trong đó: 171.000.000 đồng (tiền gốc 2 món vay) - 12.000.000 đồng (lãi của các khoản vay cũ trước đó còn tồn lại) + 29.000.000 đồng (là lãi mới của 02 món vay trong tháng 02/2023 nêu trên) - 88.000.000 đồng (số tiền bà Đ cam kết trả nêu trên).
Từ ngày 10/3/2023 đến ngày 18/3/2023, bà Đ đã 03 lần chuyển tiền từ tài khoản số 41110000215128 tại ngân hàng của mình đến tài khoản sô 4111000329xxxxx tại Ngân hàng B của Nguyễn Ngọc S với tổng số tiền 88.000.000 đồng như đã thoả thuận trước đó. Lúc này S cho bà Đ vay 02 món gồm: món vay 40.000.000 đồng tiếp tục gia hạn và món vay 84.000.000 đồng (có nguồn gốc từ món 131.000.000 đồng đã thanh toán đủ lãi và trừ 47.000.000 đồng tiền gốc) thoả thuận lãi suất phải trả là 20.000.000 đồng/30 ngày (tương đương 289,68%/ 01 năm = 14,5 lần lãi suất cao nhất theo quy định), thời gian vay tính từ ngày 10/03/2023.
Từ ngày 20/3/2023 đến ngày 11/5/2023, bà Đ đã 37 lần trả tiền lãi cho Nguyễn Ngọc S thông qua hình thức chuyển khoản đến số tài khoản của Nguyễn Ngọc S và số tài khoản 0878776789 lại Ngân hàng M của L trú tại tổ H, phường Q, tổng số tiền 48.500.000 đồng.
Ngày 12/5/2023, bà Đ nói đang gặp khó khăn và đề nghị được giảm lãi nên S với bà Đ thống nhất chia lại số tiền 124.000.000 đồng thành 2 khoản vay mới. Cụ thể: số tiền 100.000.000 đồng thoả thuận phải trả lãi 20.000.000 đồng/30 ngày (tương đương 243,33% /01 năm = 12,17 lãi suất cao nhất theo quy định) thời gian vay tính từ ngày 10/5/2023 đến khi thanh toán xong tiên gốc và lãi, chu kỳ 30 ngày trả lãi một lần; số tiền 24.000.000 đồng thoả thuận phải trả lãi 2.400.000 đồng/10 ngày (tương đương 365%/ 01 năm = 18,25 lần lãi suất cao nhất theo quy định) thời gian vay tính từ ngày 12/5/2023 đến khi thanh toán xong tiền gốc và lãi, chu kỳ 10 ngày trả lãi một lần. Từ ngày 12/5/2023 đến ngày 27/9/2023, bà Đ đã 110 lần trả tiền lãi cho Nguyễn Ngọc S thông qua hình thức chuyển khoản với tổng số tiền 131.200.000 đồng.
Như vậy, trong thời gian từ ngày 10/02/2023 đến ngày 10/3/2023, Nguyễn Ngọc S đã cho bà Đ vay tổng số tiền 171.000.000 đồng, đã thu lãi 31.400.000 đồng (thu lợi bất chính 28.895.890 đồng, lãi tối đa được phép thu là 2.504.110 đồng). Trong thời gian từ ngày 10/3/2023 đến ngày 27/9/2023, Nguyễn Ngọc S tiếp tục cho bà Đ vay 124.000.000 đồng, đã thu lãi 177.300.000 đồng (thu lợi bất chính 163.643.014 đồng, lãi tối đa được phép thu là 13.656.986 đồng). Tổng số tiền Nguyễn Ngọc S thu lợi bất chính là 192.538.904 đồng.
Bà Lò Thị Đ thấy Nguyễn Ngọc S tính tiền lãi suất quá cao và không còn khả năng trả nợ nên sau ngày 27/9/2023 bà Đ không tiếp tục thực hiện trả nợ gốc và lãi. Ngày 12/10/2023, bà Đ làm đơn tố giác Nguyễn Ngọc S về hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.
Vật chứng thu giữ: 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 Pro vỏ màu vàng; số IMEI: 353084300402291; bên trong có lắp sim thuê bao số 097629xxxxx. Điện thoại đã qua sử dụng.
Biện pháp cưỡng chế: Ngày 23/10/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh S ra Lệnh phong toả tài khoản số 10/LPT-CSHS đối với tài khoản Ngân hàng B (số tài khoản ngân hàng mới thay đổi là 411329xxxxx) mang tên NGUYEN NGOC S. Cùng ngày 23/10/2023 Ngân hàng B Chi nhánh tỉnh S đã thực hiện phong toả tài khoản 4111000329xxxxx số tiền 14.939.277 đồng.
Do có hành vi nêu trên, tại Cáo trạng số 11/CT-VKS ngày 08/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh S đà truy tố Nguyễn Ngọc S về tội Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự theo quy định tại khoản 2 Điều 201 Bộ luật Hình sự.
* Tại phiên tòa sơ thẩm:
Bị cáo Nguyễn Ngọc S thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng truy tố và không khai báo gì thêm.
Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố về tội danh và điều luật áp dụng đối với các bị cáo và đề nghị:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc S phạm tội Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự. Áp dụng khoản 2 Điều 201; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54, Điều 35 Bộ luật Hình sự. Phạt tiền bị cáo Nguyễn Ngọc S từ 150.000.000đ đến 180.000.000đ. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
* Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 579, 580, 581, 583 BLDS; Điều 5 Nghị quyết 01/2021/HĐTP ngày 20/12/2021: Buộc Nguyễn Ngọc S phải trả lại cho bà Đ số tiền thu lợi bất chính số tiền 192.538.904 đồng.
* Về xử lý vật chứng, tài sản, phong tỏa tài khoản:
- Hủy bỏ phong tỏa tài khoản Ngân hàng B số 4111000329xxxxx mang tên NGUYEN NGOC S số tiền 14.939.277 đồng. Khấu trừ trách nhiệm đối với số tiền 10.000.000 đồng mà Nguyễn Ngọc S nộp khắc phục.
- Áp dụng Điều 47 BLHS, khoản 2 Điều 106 BLTTHS; Điều 5 Nghị quyết 01/2021/HĐTP ngày 20/12/2021:
+ Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 171.000.000 đồng (Truy thu của Nguyễn Ngọc S 47.000.000 đồng; truy thu của bà Lò Thị Đ 124.000.000 đồng).
+ Truy thu của Nguyễn Ngọc S số tiền do phạm tội mà có là số lãi tương ứng lãi suất 20% là 16.161.096 đồng.
+ Tịch thu 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 Pro vỏ màu vàng số IMEI: 353084300402291; bên trong có lắp sim thuê bao số 097629xxxxx của Nguyễn Ngọc S.
Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tố tụng: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, việc vắng mặt của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt theo quy định khoản 1 Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Trong thời gian từ ngày 10/02/2023 đến ngày 10/3/2023, Nguyễn Ngọc S đã cho bà Đ vay tổng số tiền 171.000.000 đồng, đã thu lãi 31.400.000 đồng (thu lợi bất chính 28.895.890 đồng, lãi tối đa được phép thu là 2.504.110 đồng). Từ ngày 10/3/2023 đến ngày 27/9/2023, Nguyễn Ngọc S tiếp tục cho bà Đ vay 124.000.000 đồng, đã thu lãi 177.300.000 đồng (thu lợi bất chính 163.643.014 đồng, lãi tối đa được phép thu là 13.656.986 đồng). Mức lãi suất cho vay từ 232,19% đến 365%/ 01 năm, vượt quá mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự từ 11,6 đến 18,25 lần. Tổng số tiền Nguyễn Ngọc S thu lợi bất chính là 192.538.904 đồng.
Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau:
- Đơn tố giác tội phạm đề ngày 12/10/2023 của bà Lò Thị Đ tố giác về hành vi cho vay lãi nặng của Nguyễn Ngọc S đồng thời cung cấp 19 (mười chín) tờ giấy A4 in ảnh nội dung tin nhắn.
- Sao kê tài khoản ngân hàng, dữ liệu tin nhắn, cuộc gọi trên điện thoại của bị cáo và các đối tượng có liên quan khác trong vụ án thể hiện việc giao, chuyển tiền và các hoạt động khác liên quan đến việc vay nợ.
- Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Ngọc S tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người liên quan (người vay, các đối tượng khác liên quan đến việc cho vay) và các chứng cứ khác đã thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa.
Với các căn cứ chứng minh trên, có đủ cơ sở kết luận hành vi của Nguyễn Ngọc S đã phạm tội Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự theo Điều 201 Bộ luật Hình sự.
Về khung hình phạt áp dụng: Hành vi của bị cáo Nguyễn Ngọc S cho vay tiền với lãi suất cao gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất và thu lợi bất chính số tiền 192.538.904 đồng, đã vi phạm tình tiết định khung “Phạm tội mà thu lợi bất chính 100.000.000 đồng trở lên thì bị phạt tiền từ 200.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
[5] Về tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo trong vụ án:
Hành vi của bị cáo phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự quản lý tiền tệ trong lĩnh vực Tài chính, Ngân hàng của Nhà nước và xâm phạm đến lợi ích công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương. Bị cáo nhận thức được việc cho vay lãi nặng là trái quy định của pháp luật và bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vì mục đích vụ lợi bị cáo vẫn thực hiện. Do đó cần có mức hình phạt phù hợp, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo trên cơ sở xem xét, đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
[6] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về nhân thân: Bị cáo đã có 03 tiền án và 02 lần bị xử lý hành chính tuy nhiên các tiền án, tiền sự của bị cáo Nguyễn Ngọc S đều đã được xóa án tích.
Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo tự nguyện khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, nộp trước một phần số tiền truy thu là 10.000.000đ tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh S nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có ông nội được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhì nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[7] Việc áp dụng hình phạt chính và hình phạt bổ sung:
Hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, việc áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính đối với bị cáo cũng đảm bảo tính giáo dục, răn đe và phù hợp với nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự theo quy định tại Điều 3 Nghị quyết 01/2021/HĐTP ngày 20/12/2021 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 201 của Bộ luật Hình sự và việc xét xử vụ án hình sự về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự. Bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 và tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, do đó Hội đồng xét xử quyết định áp dụng mức hình phạt dưới mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt theo quy định tại Điều 54 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo. Xét đề nghị mức hình phạt của Viện kiểm sát là có căn cứ.
Về hình phạt bổ sung: Do hình phạt chính đối với bị cáo được áp dụng là hình phạt tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo
[8] Về biện pháp tư pháp:
Căn cứ theo Điều 5 Nghị quyết 01/2021/HĐTP ngày 20/12/2021 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 201 của Bộ luật Hình sự và việc xét xử vụ án hình sự về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự thì khoản tiền gốc và khoản tiền thu lời bất chính mà bị cáo đã thu được từ hoạt động cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự được xử lý như sau:
Tịch thu sung ngân sách Nhà nước theo nguyên tắc: Khoản tiền, tài sản khác người phạm tội dùng để cho vay (nếu người vay đã trả) + tiền lãi đã thu (bao gồm tiền lãi tương ứng mức lãi suất 20%/năm và tiền thu lời bất chính tương ứng mức lãi suất trên 20%/năm mà người phạm tội đã thu của người vay).
Đối với người vay: Do cần tiền để làm ăn nên bà Đ vay tiền của Nguyễn Ngọc S với lãi suất cao. Bà Đ không sử dụng tiền vào mục đích bất hợp pháp nên cần hoàn trả lại cho bà Đ số tiền thu lợi bất chính mà bà Đ thực tế đã trả cho Nguyễn Ngọc S. Tuy nhiên, bà Đ phải nộp lại số tiền gốc còn nợ Nguyễn Ngọc S để sung quỹ Nhà nước (khoản tiền người phạm tội dùng để cho vay).
Căn cứ vào kết quả chênh lệch trong từng trường hợp cụ thể để xác định số tiền trả lại người vay hoặc yêu cầu người vay phải nộp lại để sung ngân sách Nhà nước theo nguyên tắc: Tiền thu lời bất chính (tiền lãi tương ứng mức lãi suất trên 20%/năm mà người phạm tội đã thu của người vay) - tiền gốc mà người vay chưa trả. Cụ thể:
Truy thu của bị cáo Nguyễn Ngọc S: 47.000.000 đồng (tiền gốc đã thu) + 16.161.096 đồng (tiền lãi đã thu) = 63.161.096 đồng.
Truy thu của bà Lò Thị Đ 124.000.000 đồng (số tiền gốc còn nợ lại).
Như vậy, tổng số tiền phải truy thu là: 187.161.096 đồng (Một trăm tám mươi bảy triệu một trăm sáu mươi mốt nghìn không trăm chín mươi sáu đồng).
Trả lại cho bà Lò Thị Đ là 192.538.904 đồng (Một trăm chín mươi hai triệu năm trăm ba mươi tám nghìn chín trăm linh tư đồng).
[9] Đối với tài khoản phong tỏa:
Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an tỉnh S đã ra Lệnh phong tỏa tài khoản số 10/LPT-CSHS đối với tài khoản ngân hàng B (số tài khoản ngân hàng mới thay đổi là 411329xxxxx) mang tên NGUYEN NGOC S; số dư tài khoản tại thời điểm ngày 23/10/2023 là: 14.939.277 đồng, số tiền xác định không liên quan đến hành vi phạm tội.
Đối với Lại Hoàng S1 và Đoàn Tất T2: S1 được bị cáo nhờ nhận tiền bà Đ trả qua tài khoản, còn Đoàn Tất T2 được bị cáo nhờ thực hiện đòi nợ giúp một số lần, cả S1, T2 đều không biết cụ thể số tiền cho vay và lãi suất khi cho vay của Nguyễn Ngọc S. Không được hưởng lợi ích vật chất từ việc nhận tiền, đòi tiền theo yêu cầu từ Nguyễn Ngọc S. Do đó hành vi không cấu thành tội phạm khác khi thực hiện việc đòi nợ, không đồng phạm với S về hành vi cho vay lãi nặng.
[10] Về xử lý vật chứng vụ án và án phí: Đối với vật chứng là 01 chiếc điện thoại di động thu giữ của Nguyễn Ngọc S, xác định liên quan đến hành vi phạm tội, cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.
Bị cáo Nguyễn Ngọc S phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và hình phạt: Căn cứ khoản 2 Điều 201; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54, Điều 35 Bộ luật Hình sự Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc S phạm tội Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.
Phạt tiền bị cáo Nguyễn Ngọc S 150.000.000đ (một trăm năm mươi triệu đồng).
Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.
2. Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 46, điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
2.1. Về biện pháp tư pháp:
- Buộc bị cáo phải hoàn trả lại cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Lò Thị Đ số tiền 192.538.904 đồng (Một trăm chín mươi hai triệu năm trăm ba mươi tám nghìn chín trăm linh tư đồng).
- Truy thu đối với bị cáo Nguyễn Ngọc S số tiền 63.161.096 đồng (Sáu mươi ba triệu một trăm sáu mươi mốt nghìn không trăm chín mươi sáu đồng) được khấu trừ số tiền 10.000.000đ đã nộp tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh S theo biên lai thu số 0001479 ngày 02/02/2024. Còn phải truy thu tiếp đối với bị cáo Nguyễn Ngọc S số tiền là: 53.161.096 đồng (Năm mươi ba triệu một trăm sáu mươi mốt nghìn không trăm chín mươi sáu đồng).
Hủy bỏ Lệnh phong tỏa tài khoản số 10/LPT-CSHS đối với tài khoản Ngân hàng B (số tài khoản ngân hàng mới thay đổi là 411329xxxxx) mang tên NGUYEN NGOC S; số dư tài khoản tại thời điểm ngày 23/10/2023 là: 14.939.277 đồng.
- Truy thu đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Lò Thị Đ số tiền 124.000.000 đồng (Một trăm hai mươi tư triệu đồng).
2.2. Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 (Một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 Pro màu vàng, số IMEI: 353084300402291, bên trong có lắp kèm 01 sim, được đựng trong 01 (một) chiếc phong bì còn nguyên niêm phong.
(Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 03/01/2024 giữa bên giao là Cơ quan CSĐT Công an tỉnh S và bên nhận là Cục Thi hành án dân sự tỉnh S).
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:
Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc S phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 05/02/2024).
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự,
Bản án về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự số 72/2024/HS-ST
Số hiệu: | 72/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/02/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về