TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM BẢNG, TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 68/2023/HS-ST NGÀY 26/07/2023 VỀ TỘI CHO VAY LÃI NẶNG TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ
Ngày 26 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 69/2023/TLST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 64/2023/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:
Hồ Văn H, sinh năm 1989 tại tỉnh Hà Nam; nơi cư trú: Thôn T, xã Đ, huyện K, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Văn Th và bà Trần Thị L; có vợ là Nguyễn Thị H và có 03 con, lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ nhất sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 19/5/2023 đến ngày 23/5/2023 được cho tại ngoại; có mặt tại phiên toà.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Anh Trần Văn T, sinh năm 1989; nơi cư trú: Thôn Y, xã Đ, huyện K, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.
2. Anh Nguyễn Quốc H1, sinh năm 1990; nơi cư trú: Tổ dân phố N, phường Đ, thị xã D, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồ Văn H, sinh năm 1989 ở thôn T, xã Đ, huyện K, tỉnh Hà Nam làm nghề tự do, không có giấy phép kinh doanh dịch vụ cấp, cho vay tín dụng hoặc hỗ trợ tài chính nhưng vì hám lợi khi thấy một số người có nhu cầu vay tiền dùng vào mục đích cá nhân. H nảy sinh ý định cho những người có nhu cầu vay tiền với mức lãi suất cao là 180%/năm (cao gấp 09 lần mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự), nhằm thu lợi bất chính. Khi người vay có nhu cầu vay tiền, Hậu yêu cầu người vay viết giấy vay tiền có đầy đủ thông tin về ngày vay, số tiền vay, thời hạn vay nhưng không ghi lãi suất, đồng thời yêu cầu người vay để lại căn cước công dân. H thống nhất với người vay nếu chưa trả được tiền gốc, người vay phải trả lãi vào ngày trùng với ngày vay của tháng tiếp theo cho đến khi nào trả hết số tiền gốc đã vay. Việc giao dịch cho vay lãi nặng của Hồ Văn H cụ thể như sau:
1. Ngày 19/4/2022, Hồ Văn H cho anh Trần Văn T, sinh năm 1989, nơi cư trú: Thôn Y, xã Đ, huyện K, tỉnh Hà Nam vay số tiền 20.000.000 đồng, với lãi suất 5.000 đồng/1.000.000 đồng/1 ngày (tương ứng là 180%/năm), tính đến ngày 19/5/2023 H đã thu của anh T 14 tháng tiền lãi với số tiền là 42.000.000 đồng, tiền gốc chưa trả.
Như vậy, số tiền lãi tối đa H được hưởng theo quy định của pháp luật đối với số tiền 20.000.000 đồng H cho anh T vay trong thời gian 14 tháng (420 ngày) là 4.602.739 đồng. Số tiền H đã thu lợi bất chính là 42.000.000 đồng – 4.602.739 đồng = 37.397.261 đồng.
2. Ngày 08/10/2022, Hồ Văn H cho anh Nguyễn Quốc H1, sinh năm 1990, nơi cư trú: Tổ dân phố N, phường Đ, thị xã D, tỉnh Hà Nam vay số tiền 15.000.000 đồng, với lãi suất 5.000 đồng/1.000.000 đồng/1 ngày (tương ứng là 180%/năm), tính đến ngày 08/4/2023 H đã thu của anh H1 06 tháng tiền lãi với số tiền là 13.500.000 đồng và anh H1 đã trả cho H 15.000.000 đồng tiền gốc.
Như vậy, số tiền lãi tối đa H được hưởng theo quy định của pháp luật đối với số tiền 15.000.000 đồng H cho anh H1 vay trong thời gian 06 tháng (180 ngày) là 1.479.452 đồng. Số tiền H đã thu lợi bất chính là 13.500.000 đồng – 1.479.452 đồng = 12.020.548 đồng.
Như vậy, tổng số tiền Hồ Văn H đã cho anh Trần Văn T và anh Nguyễn Quốc H1 vay là 35.000.000 đồng; tổng số tiền gốc Hậu đã thu là 15.000.000 đồng; tổng số tiền lãi H được hưởng theo quy định của pháp luật là 6.082.191 đồng; tổng số tiền lãi H thu lợi bất chính là 49.417.809 đồng.
Vật chứng thu giữ, tạm giữ gồm: Tạm giữ của Hồ Văn H số tiền 4.000.000 đồng và 01 điện thoại Iphone 11, bên trong có 01 sim Viettel.
Tại bản Cáo trạng số 73/CT-VKS-KB ngày 10/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam đã truy tố bị cáo Hồ Văn H về tội "Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự" theo khoản 1 Điều 201 Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 201; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 36 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo H từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng cải tạo không giam giữ, được trừ 05 ngày đã bị tạm giữ; miễn hình phạt bổ sung và miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo. Về vật chứng và biện pháp tư pháp: Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 4.000.000 đồng; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại Iphone 11; buộc bị cáo H phải nộp ngân sách Nhà nước số tiền 17.082.191 đồng; buộc anh Trần Văn T phải nộp ngân sách Nhà nước số tiền 20.000.000 đồng. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo H phải trả lại cho anh T số tiền 37.397.261 đồng và trả lại cho anh H1 số tiền 12.020.548 đồng.
Tại phiên tòa, bị cáo Hồ Văn H khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam đã truy tố và nhất trí với lời luận tội của Kiểm sát viên, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định đó. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh: Lời nhận tội của bị cáo Hồ Văn H tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, biên bản thu giữ vật chứng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án mà Cơ quan điều tra đã thu thập.
Hội đồng xét xử thấy đã có đủ căn cứ để xác định: Trong khoảng thời gian từ tháng 4/2022 đến ngày 19/5/2023, tại thôn T, xã Đ, huyện K, tỉnh Hà Nam, bị cáo Hồ Văn H đã cho anh Trần Văn T và anh Nguyễn Quốc H1 vay tổng số tiền 35.000.000 đồng với mức lãi suất 5.000 đồng/1.000.000 đồng/1 ngày (tương ứng là 180%/năm, cao gấp 09 lần mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự);
số tiền gốc H đã thu về 15.000.000 đồng; tổng số tiền lãi H thu lợi bất chính là 49.417.809 đồng.
Tính chất, mức độ tội phạm bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, xâm phạm đến lợi ích của công dân, làm mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Do vậy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội "Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự" được quy định tại khoản 1 Điều 201 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
[3.1] Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, lần đầu phạm tội. [3.2] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết nào.
[3.3] Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra và tại phiên toà đều khai báo thành khẩn nên được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo có ông ngoại được tặng thưởng Huân chương Kháng chiến, có bác ruột là Liệt sĩ nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[4] Về hình phạt:
[4.1] Hình phạt chính: Từ những phân tích nêu trên, xét thấy cần xử phạt nghiêm minh bị cáo bằng hình phạt cải tạo không giam giữ, tương xứng với tính chất, mức độ tội phạm bị cáo đã thực hiện mới có tác dụng răn đe, cải tạo, giáo dục và nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Bên cạnh đó cũng cần đối trừ với 05 ngày bị cáo đã bị tạm giữ, cứ 01 ngày tạm giữ bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ.
[4.2] Về khấu trừ thu nhập: Xét thấy bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định nên miễn khấu trừ thu nhập cho bị cáo.
[4.3] Hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có tài sản riêng, do đó cần miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Những người vay tiền của bị cáo H đều sử dụng vào mục đích hợp pháp gồm anh Trần Văn T yêu cầu H trả lại số tiền 37.397.261 đồng, anh Nguyễn Quốc H1 yêu cầu H trả lại số tiền 12.020.548 đồng là tiền bị H thu lợi bất chính. Tại phiên tòa bị cáo H nhất trí trả lại toàn bộ số tiền nêu trên, vì vậy cần buộc bị cáo phải trả lại toàn bộ số tiền theo yêu cầu nêu trên của anh T và anh H1 tổng số tiền là 49.417.809 đồng.
[6] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:
[6.1] Đối với số tiền 4.000.000 đồng cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo H là tiền lãi H đã thu của anh Trần Văn T, đây là tiền bị cáo sử dụng vào mục đích phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước. Đối với chiếc điện thoại di động Iphone 11 là tài sản chính đáng của bị cáo, không liên quan đến tội phạm nên cần trả lại cho bị cáo, nhưng cần tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kim Bảng để đảm bảo thi hành án về phần dân sự và phần án phí.
[6.2] Đối với số tiền gốc 15.000.000 đồng H đã thu từ anh Nguyễn Quốc H1 và số tiền lãi suất cao nhất theo quy định H được hưởng là 6.082.191 đồng, tổng cộng là 21.082.191 đồng là tiền sử dụng vào mục đích phạm tội và tiền thu từ việc phạm tội, trong đó trừ đi 4.000.000 đồng cơ quan điều tra đã thu giữ của bị cáo như đã nêu ở trên, còn lại là cần buộc bị cáo phải nộp để sung vào ngân sách Nhà nước số tiền là 21.082.191 – 4.000.000 đồng = 17.082.191 đồng.
[6.3] Đối với số tiền 20.000.000 đồng là số tiền gốc bị cáo H chưa thu được của anh Trần Văn T nhưng đến nay anh T chưa giao nộp là tiền sử dụng vào mục đích phạm tội nên cần buộc anh T phải nộp để sung vào ngân sách Nhà nước.
[7] Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.
[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 201; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 36; Điều 47 Bộ luật Hình sự; các điểm a, b khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án:
1. Về hình sự: Tuyên bố bị cáo Hồ Văn H phạm tội "Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự". Xử phạt bị cáo Hồ Văn H 01 (một) năm cải tạo không giam giữ về tội "Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự", được trừ 05 (năm) ngày đã bị tạm giữ; thời gian cải tạo không giam giữ còn lại bị cáo phải chấp hành là 11 (mười một) tháng 15 (mười lăm) ngày, tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Miễn khấu trừ thu nhập để nộp ngân sách Nhà nước đối với bị cáo.
Giao bị cáo Hồ Văn H cho Uỷ ban nhân dân xã Đ, huyện K, tỉnh Hà Nam giám sát, giáo dục.
2. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Hồ Văn H phải trả lại cho anh Trần Văn T số tiền 37.397.261đ (ba mươi bảy triệu ba trăm chín mươi bảy nghìn hai trăm sáu mốt đồng) và trả lại cho anh Nguyễn Quốc H1 số tiền 12.020.548đ (mười hai triệu không trăm hai mươi nghìn năm trăm bốn tám đồng).
3. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:
- Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 4.000.000đ (bốn triệu đồng).
- Trả lại cho bị cáo Hồ Văn H 01 điện thoại Iphone 11, màu đen, bên trong có 01 sim Viettel, song tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kim Bảng để đảm bảo thi hành án đối với bị cáo về phần án phí và phần dân sự.
(Tình trạng, đặc điểm vật chứng nêu trên theo Biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 12/7/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam).
- Buộc bị cáo Hồ Văn H phải nộp số tiền 17.082.191đ (mười bảy triệu không trăm tám mươi hai nghìn một trăm chín mốt đồng) để sung vào ngân sách Nhà nước.
- Buộc anh Trần Văn T phải nộp số tiền 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng) để sung vào ngân sách Nhà nước.
3. Về án phí: Buộc bị cáo Hồ Văn H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Đối với trường hợp khoản tiền phải thu nộp vào ngân sách Nhà nước mà pháp luật có quy định nghĩa vụ trả lãi; hoặc trường hợp chậm thực hiện nghĩa vụ về tài sản trong hoặc ngoài hợp đồng khác mà các bên không thỏa thuận về việc trả lãi thì quyết định kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Bản án về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự số 68/2023/HS-ST
Số hiệu: | 68/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kim Bảng - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về