Bản án về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự số 34/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 34/2023/HS-ST NGÀY 23/06/2023 VỀ TỘI CHO VAY LÃI NẶNG TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ

Ngày 23 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 21/2023/TLST-HS ngày 31 tháng 3 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26a/2023/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 5 năm 2023, Thông báo thay đổi lịch xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa đối với bị cáo:

Hà Trọng T, sinh năm 1997; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Thôn Hà H, xã Hà K, huyện Tứ K tỉnh Hải Dương.; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Trọng H và bà Nguyễn Thị T; có vợ là Hà Thị H và 02 con, lớn sinh năm 2020, nhỏ sinh năm 2021; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Phạm Khắc C, sinh năm 1986; địa chỉ: Thôn Kiều L, xã Hà T, huyện Tứ K tỉnh Hải Dương.

+ Anh Nguyễn Trường Đ, sinh năm 1977; địa chỉ: Thôn Thượng Đ, xã Hồng D, huyện Ninh G, tỉnh Hải Dương.

+ Chị Nguyễn Thị Y, sinh năm 1994; địa chỉ: Thôn Tranh X, xã Đồng T, huyện Ninh G, tỉnh Hải Dương.

+ Anh Phạm Công Q, sinh năm 1977; địa chỉ: Khu 2, thị trấn Ninh G, huyện Ninh G, tỉnh Hải Dương.

+ Anh Bùi Văn T, sinh năm 1997; địa chỉ: Thôn Đại H, xã Hà K, huyện Tứ K, tỉnh Hải Dương.

(Tại phiên tòa có mặt bị cáo T. Vắng mặt những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hà Trọng T không có nghề nghiệp ổn định. Đầu năm 2021, T nảy sinh ý định cho người khác vay tiền với lãi suất cao lấy tiền tiêu sài. Sau đó, T mua quyền sử dụng quản lý phần mềm cầm đồ “Mecash”, đăng ký tên tài khoản "anhtai97" và tạo mật khẩu là "taitrang97" để quản lý số người vay, mức lãi suất, kỳ hạn đóng lãi của người vay. T sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Pro Max, mầu vàng, loại 128GB lắp sim số thuê bao 0965.737.X đăng ký mạng Internet để đăng nhập vào tài khoản "anhtai97" trên website: http://ag.mecash.vn để quản lý khách vay tiền, xem khách vay ai đến hẹn đóng lãi để thu tiền lãi. Khi có khách vay tiền T kiểm tra thông tin người vay, đồng ý cho khách vay theo lãi suất thoả thuận từ 3.000 đồng/1 triệu/1 ngày trở lên. Khi người vay đồng ý, T nhập thông tin người vay trên phần mềm và các thông tin về tên người vay, địa chỉ, ngày vay, lãi suất vay, ngày đến hạn (Thông thường T chỉ nhập tên không có họ, tên đệm và địa chỉ không cụ thể. T không yêu cầu người vay phải viết giấy vay tiền). Trong khoảng thời gian từ đầu năm 2021 đến năm 2022 T thực hiện việc cho 05 người vay với mức lãi xuất cao tại xã H, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương, cụ thể như sau:

1. Ngày 03/5/2021, T cho anh Phạm Khắc C, sinh năm 1986, trú quan: Thôn Kiều Long, xã Hà Thanh, huyện Tứ Kỳ vay 20.000.000 đồng, lãi suất 3.000 đồng/1 triệu/1 ngày, thời hạn vay 30 ngày. Anh C đã trả tiền lãi cho T đến ngày 01/6/2021 là 1.800.000 đồng (tương đương lãi xuất 109,5%), thu lời bất chính 1.471.233 đồng. Anh C đã trả tiền gốc cho T.

- Ngày 10/5/2021, anh C tiếp tục vay T 40.000.000 đồng, lãi suất 3.000 đồng/1 triệu/1 ngày, thời hạn vay 30 ngày. Anh C đã trả tiền lãi cho T đến ngày 08/6/2021 là 3.600.000 đồng, thu lời bất chính 2.942.466 đồng. Anh C đã trả tiền gốc cho T.

2. Ngày 07/9/2021, T cho anh Nguyễn Trường Đ, sinh năm 1977, trú quán: Thôn T, xã H, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương vay 10.000.000 đồng, lãi suất 3.000 đồng/1 triệu/1 ngày, thời hạn vay 405 ngày. Anh Đ đã trả tiền lãi cho T đến ngày 16/10/2022 là 12.150.000 đồng, thu lời bất chính số tiền 9.930.822 đồng. Anh Đ đã trả tiền gốc cho T.

3. Ngày 22/10/2021, T cho chị Nguyễn Thị Y, sinh năm 1994, trú quán: Thôn T, xã Đồng Tâm, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương vay 20.000.000 đồng, lãi suất 3.000 đồng/1 triệu/1 ngày, thời hạn vay 110 ngày.

Chị Y đã trả tiền lãi cho T đến ngày 08/02/2022 là 6.600.000 đồng, thu lời bất chính số tiền 5.394.521 đồng. Chị Y đã trả tiền gốc cho T.

- Ngày 03/3/2022, chị Y tiếp tục vay T 20.000.000 đồng, lãi suất 3.000 đồng/1 triệu/1 ngày, thời hạn vay 76 ngày. Chị Y đã trả tiền lãi cho T đến ngày 17/5/2022 là 4.560.000 đồng, thu lời bất chính số tiền 3.727.123 đồng. Chị Y đã trả tiền gốc cho T.

4. Ngày 30/01/2022, T cho anh Phạm Công Q, sinh năm 1977, trú quán: Khu 2, thị trấn N, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương vay 20.000.000 đồng, lãi suất 3.000 đồng/1 triệu/1 ngày, thời hạn vay 255 ngày. Anh Q đã trả tiền lãi cho T đến ngày 11/10/2022 là 15.300.000 đồng, thu lời bất chính số tiền 12.505.479 đồng. Anh Q đã trả tiền gốc cho T.

5. Ngày 15/4/2022, T cho anh Bùi Văn T, sinh năm 1997, trú quán: Thôn Đ, xã H vay 5.000.000 đồng, lãi suất 3.000 đồng/1 triệu/1 ngày, thời hạn vay 33 ngày. Anh T đã trả tiền lãi cho T đến ngày 17/5/2022 là 495.000 đồng, thu lời bất chính số tiền 404.589 đồng. Anh T đã trả tiền gốc cho T.

- Ngày 16/4/2022, anh T tiếp tục vay T 5.000.000 đồng, lãi suất 3.000 đồng/1 triệu/1 ngày, thời hạn vay 33 ngày. Anh T đã trả tiền lãi cho T đến ngày 18/5/2022 là 495.000 đồng, thu lời bất chính 404.589 đồng. Anh T đã trả tiền gốc cho T.

Công văn số 1285 ngày 31/10/2022, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam- Chi nhánh tỉnh Hải Dương xác định mức lãi xuất như sau:

- Lãi suất cho vay 1.000đ/1 triệu/1 ngày tương đương là 36.5%/1 năm;

- Lãi suất cho vay 2.000đ/1 triệu/1 ngày tương đương là 73%/1 năm;

- Lãi suất cho vay 3.000đ/1 triệu/1 ngày tương đương là 109,5%/1 năm;

- Lãi suất cho vay 4.000đ/1 triệu/1 ngày tương đương là 146%/1 năm;

- Lãi suất cho vay 5.000đ/1 triệu/1 ngày tương đương là 182,5%/1 năm;

- Lãi suất cho vay 7.000đ/1 triệu/1 ngày tương đương là 255,5%/1 năm;

- Vay 5 triệu (cắt lãi trước, người vay nhận 4.000.000 đồng), mỗi ngày trả 100.000 đồng, trả trong vòng 50 ngày tương đương mức lãi suất là 333,2%/1 năm;

- Vay 5 triệu (cắt lãi trước, người vay nhận 4.000.000 đồng), mỗi ngày trả 50.000 đồng, trả trong vòng 100 ngày tương đương mức lãi suất là 168,01%/1 năm;

- Vay 5 triệu (cắt lãi trước, người vay nhận 4.250.000 đồng), mỗi ngày trả 50.000 đồng, trả trong vòng 100 ngày tương đương mức lãi suất là 120,96%/1 năm;

- Vay 6 triệu (cắt lãi trước, người vay nhận 4.800.000 đồng), mỗi ngày trả 60.000 đồng, trả trong vòng 100 ngày tương đương mức lãi suất là 168,01%/1 năm;

- Vay 10 triệu (cắt lãi trước, người vay nhận 8.000.000 đồng), mỗi ngày trả 100.000 đồng, trả trong vòng 100 ngày tương đương mức lãi suất là 168,01%/1 năm;

- Vay 15 triệu (cắt lãi trước, người vay nhận 12.000.000 đồng), mỗi ngày trả 150.000 đồng, trả trong vòng 100 ngày tương đương mức lãi suất là 168,01%/1 năm;

- Vay 15 triệu (cắt lãi trước, người vay nhận 12.750.000 đồng), mỗi ngày trả 150.000 đồng, trả trong vòng 100 ngày tương đương mức lãi suất là 120,96%/1 năm;

- Vay 20 triệu (cắt lãi trước, người vay nhận 17.000.000 đồng), mỗi ngày trả 200.000 đồng, trả trong vòng 100 ngày tương đương mức lãi suất là 120,96%/1 năm;

- Vay 20 triệu (cắt lãi trước, người vay nhận 16.000.000 đồng), mỗi ngày trả 200.000 đồng, trả trong vòng 100 ngày tương đương mức lãi suất là 168,01%/1 năm;

- Vay 20 triệu (cắt lãi trước, người vay nhận 16.500.000 đồng), mỗi ngày trả 200.000 đồng, trả trong vòng 100 ngày tương đương mức lãi suất là 143,99%/1 năm;

- Vay 30 triệu (cắt lãi trước, người vay nhận 25.500.000 đồng), mỗi ngày trả 300.000 đồng, trả trong vòng 100 ngày tương đương mức lãi suất là 120,96%/1 năm;

- Vay 40 triệu (cắt lãi trước, người vay nhận 34.000.000 đồng), mỗi ngày trả 400.000 đồng, trả trong vòng 100 ngày tương đương mức lãi suất là 120,96%/1 năm;

- Vay 50 triệu (cắt lãi trước, người vay nhận 42.500.000 đồng), mỗi ngày trả 500.000 đồng, trả trong vòng 100 ngày tương đương mức lãi suất là 120,96%/1 năm;

- Vay 60 triệu (cắt lãi trước, người vay nhận 50.500.000 đồng), mỗi ngày trả 600.000 đồng, trả trong vòng 100 ngày tương đương mức lãi suất là 128,53%/1 năm;

- Vay 70 triệu (cắt lãi trước, người vay nhận 58.000.000 đồng), mỗi ngày trả 700.000 đồng, trả trong vòng 100 ngày tương đương mức lãi suất là 140,64%/1 năm;

- Vay 80 triệu (cắt lãi trước, người vay nhận 68.000.000 đồng), mỗi ngày trả 800.000 đồng, trả trong vòng 100 ngày tương đương mức lãi suất là 120,96%/1 năm;

- Vay 100 triệu (cắt lãi trước, người vay nhận 85.000.000 đồng), mỗi ngày trả 1.000.000 đồng, trả trong vòng 100 ngày tương đương mức lãi suất là 120,96%/1 năm;

- Vay 100 triệu (cắt lãi trước, người vay nhận 86.000.000 đồng), mỗi ngày trả 1.000.000 đồng, trả trong vòng 100 ngày tương đương mức lãi suất là 112,01%/1 năm; (bút lục số 42- 43).

Kết quả điều tra xác định Hà Trọng T trực tiếp cho 05 người nêu trên vay tổng số tiền 140.000.000 đồng với lãi suất trên 100%/1 năm (109,5%), tổng số tiền lãi đã thu là 45.000.000 đồng, trong đó: số tiền lãi T thu theo lãi xuất 20%/năm (theo quy định tại diểm đ, khoản 1 Điều 5 Thông tư số 14/2017/TT- NHNN ngày 29/9/2017 của Thống đốc NHNN Việt Nam) là 8.219.178 đồng. Tổng số tiền T thu lời bất chính trong việc cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự vượt quá 05 lần mức lãi xuất cao nhất (20%) quy định trong Bộ luật dân sự là 36.780.822 đồng.

Tại Cáo trạng số 21/CT-VKSTK, ngày 30/03/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ truy tố bị cáo Hà Trọng T về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” theo quy định tại khoản 1 Điều 201 Bộ luật hình sự (BLHS).

Tại phiên tòa: Đại diện VKSND huyện Tứ Kỳ giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) áp dụng khoản 1 Điều 201; điểm s, i khoản 1 Điều 51; Điều 35 BLHS. Tuyên bố bị cáo Hà Trọng T phạm tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”, xử phạt bị cáo Hà Trọng T từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS; truy thu số tiền gốc mà T đã cho vay do người vay đã trả nộp vào ngân sách nhà nước; tịch thu với khoản tiền lãi tương ứng với mức lãi suất 20%/năm nộp ngân sách Nhà nước; Trả lại người vay khoản lãi tương ứng với mức lãi suất trên 20%/năm; Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Pro Max, vỏ mầu vàng, loại 128GB của T sử dụng đăng nhập vào phần mềm Mecash để quản lý khách vay tiền cần tịch thu phát mại nộp ngân sách nhà nước. Đối với sim số: 0965.737.X của T cần tịch thu tiêu hủy; bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự.

Bị cáo Hà Trọng T thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình, đúng như cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ đã truy tố và đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của BLTTHS nên các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, các biên bản làm việc giải trình dữ liệu và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên HĐXX có đủ căn cứ kết luận: Trong khoảng thời gian từ ngày 16/01/2021 đến ngày 19/10/2022, tại nơi ở của mình ở Thôn Hà H, xã Hà K, huyện Tứ K tỉnh Hải Dương. Hà Trọng T đã trực tiếp thực hiện hành vi cho anh Phạm Khắc C, anh Nguyễn Trường Đ, chị Nguyễn Thị Y, anh Phạm Công Q và anh Bùi Văn T vay tổng số tiền 140.000.000 đồng với lãi xuất vượt quá 05 lần mức lãi xuất cao nhất (20%) quy định trong Bộ luật dân sự. Tổng số tiền T thu lời bất chính là 36.780.822 đồng.

[3] Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được hành vi cho vay trong giao dịch dân sự với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật dân sự là vi phạm pháp luật, song với mục đích kiếm lời trái pháp luật, bị cáo vẫn cố ý thực hiện, số tiền mà bị cáo thu lời bất chính là 36.780.822 đồng nên hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” quy định tại khoản 1 Điều 201 của BLHS. Do đó quyết định truy tố của VKSND huyện Tứ Kỳ đối với bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước về tín dụng cụ thể là trật tự trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ mà còn xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người vay, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xử lý theo quy định của pháp luật.

[5] Xét tính chất hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ thì thấy: bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử sẽ xem xét, giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt thể hiện tính khoan hồng của pháp luật. Xét bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội vì mục đích tư lợi nên chỉ cần áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân biết chấp hành pháp luật cũng như có tác dụng phòng ngừa chung trong xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo đã bị áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Đối với số tiền 140 triệu đồng là tiền gốc bị cáo sử dụng để cho vay cần truy thu nộp ngân sách nhà nước.

Đối với tổng số tiền lãi đã thu là 45.000.000 đồng, trong đó: số tiền lãi T thu theo lãi xuất 20%/năm là 8.219.178 đồng cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước, số tiền T thu lời bất chính trong việc cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự vượt quá 05 lần mức lãi xuất cao nhất (20%) quy định trong Bộ luật dân sự là 36.780.822 đồng nên cần buộc bị cáo phải trả lại cho người vay. Cụ Thể:

- Trả lại anh Phạm Khắc C số tiền 4.413.699 đồng - Trả lại anh Nguyễn Trường Đ số tiền 9.930.822 đồng.

- Trả lại chị Nguyễn Thị Y số tiền 9.121.644 đồng - Trả lại anh Phạm Công Q số tiền 12.505.479 đồng - Trả lại anh Bùi Văn T số tiền 809.178 đồng Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Pro Max, vỏ mầu vàng, loại 128GB của T sử dụng đăng nhập vào phần mềm Mecash để quản lý khách vay tiền cần tịch thu phát mại nộp ngân sách nhà nước. Đối với sim số:

0965.737.X của T cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Trong vụ án này, Hà Trọng T còn cho 143 lượt vay tín chấp với tổng số tiền cho vay là 378.000.000 đồng, tổng số tiền lãi đã thu là 129.964.000 đồng, tổng số tiền thu lời bất chính là 107.530.393 đồng; T cho 1.142 lượt vay dưới hình thức bát họ, với tổng số tiền cho vay là 18.570.000.000 đồng, tổng số tiền lãi đã thu là 3.224.750.000 đồng. Do T không xác định được thông tin họ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của những người vay, Cơ quan điều tra, xác minh trên địa bàn nơi người vay sinh sống nhưng không xác định được là ai. Do đó không đủ cơ sở kết luận hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự của T đối với những người này nên không có căn cứ xem xét trong vụ án này. Sau này có căn cứ sẽ được giải quyết trong vụ án khác.

[9] Về án phí: Bị cáo phạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 201, điểm s, i khoản 1 Điều 51, Điều 35 của BLHS;

1. Tuyên bố: bị cáo Hà Trọng T phạm tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”.

Xử phạt bị cáo Hà Trọng T 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng) nộp vào ngân sách Nhà nước. Bị cáo phải nộp tiền phạt một lần sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 của BLHS;

điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 của BLTTHS.

+ Truy thu sung quỹ Nhà nước 140.000.000 đồng của bị cáo Hà Trọng T là tiền vay gốc và 8.219.178 đồng là khoản tiền lãi tương ứng với mức lãi suất 20%/năm.

+ Buộc bị cáo Hà Trọng T phải trả lại cho:

- Trả lại anh Phạm Khắc C số tiền 4.413.699 đồng - Trả lại anh Nguyễn Trường Đ số tiền 9.930.822 đồng.

- Trả lại chị Nguyễn Thị Y số tiền 9.121.644 đồng - Trả lại anh Phạm Công Q số tiền 12.505.479 đồng - Trả lại anh Bùi Văn T số tiền 809.178 đồng là khoản tiền lãi trên mức lãi suất 20%/năm mà bị cáo thu lợi bất chính từ người vay.

+ Tịch thu phát mại nộp vào Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Pro Max, vỏ mầu vàng, loại 128GB và tịch thu tiêu hủy sim số: 0965.737.X của Hà Trọng T.

(Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 06/4/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tứ Kỳ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tứ Kỳ).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về ... án phí và lệ phí Toà án. Bị cáo Hà Trọng T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; người có quyền lợi liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể nhận được giao bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

46
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự số 34/2023/HS-ST

Số hiệu:34/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tứ Kỳ - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:23/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về