Bản án về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự số 30/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 30/2023/HS-ST NGÀY 16/11/2023 VỀ TỘI CHO VAY LÃI NẶNG TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ

Ngày 16/11/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 28/2023/TLST-HS ngày 03/10/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2023/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

M Văn T, sinh năm 1993, tại: xã G, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa; HKTT và nơi ở hiện nay: Thôn G, xã G, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: lớp 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông M Văn Q (đã chết) và bà Nguyễn Thị V; vợ: M Thị Tr, sinh năm 1998, có 01 con, sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/6/2023 đến ngày 06/7/2023; Hiện bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; Có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Anh Hồ Văn C - Sinh năm 1989; địa chỉ: Thôn N, xã G, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa; Vắng mặt;

2/ Chị M Thị H - Sinh năm 1976; địa chỉ: Thôn G, xã G, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa; Vắng mặt;

* Người làm chứng:

1/Anh M Văn T1 - Sinh năm 1977; địa chỉ: Trại Giam T, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa; Vắng mặt;

2/ Chị M Thị M - Sinh năm 1993; địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa; Vắng mặt;

3/ Anh Nguyễn Văn H1 - Sinh năm 1976; địa chỉ: Thôn N, xã G, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa; Vắng mặt;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung được tóm tắt như sau:

Ngày 27/6/2023, Cơ quan C sát điều tra phòng PC02 Công an tỉnh Thanh Hóa nhận được đơn tố giác của anh Hồ Văn C về hành vi cho vay lãi nặng của M Văn T. Sau khi nhận được đơn tố giác của anh C, Phòng cảnh sát hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa đã ra Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của M Văn T, thu giữ tại phòng ngủ của vợ chồng T: 01 giấy vay tiền mang tên người vay M Thị H, số tiền 20.000.000đ, trong thời hạn 03 tháng; 01 giấy vay tiền ngày 11/6/2023 mang tên M Văn Khải, số tiền 10.000.000đ, trong thời hạn 02 tháng không tính lãi; 01 giấy vay tiền ngày 21/6/2023 mang tên người vay Nguyễn Văn H1, số tiền 100.000.000đ; 01 hợp đồng vay tiền mang tên Nguyễn Văn H1, số tiền 150.000.000đ, thời hạn vay 90 ngày, thanh toán tiền lãi vay vào ngày 22 dương lịch hàng tháng; 01 Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, hộ kinh doanh cá thể M Văn T.

Ngày 28/6/2023, M Văn T đã đến cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thanh Hóa đầu thú, khai nhận hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.

Kết quả điều tra xác minh làm rõ: khoảng đầu năm 2018, do cần tiền để chi tiêu sinh hoạt T đã nảy sinh ý định dùng nguồn tiền của cá nhân cho vay lãi nặng tại nhà mình thuộc Thôn G, xã G. T đã tìm hiểu cách thức cho vay và biết phần mềm “mecacsh” có địa chỉ “1 cash, info” cung cấp miễn phí công cụ quản lý việc cho vay lãi nên đã sử dụng điện thoại di động của mình mở tài khoản theo dõi người vay và cho một số người quen biết biết việc mình cho vay tiền; lãi suất 3.000đ/1 triệu đồng/ 1 ngày, mà không yêu cầu người vay phải viết giấy vay và thế chấp tài sản. Ai có nhu cầu vay tiền đến gặp trực tiếp T để thỏa thuận.

Hình thức T cho vay:

- Cho vay lãi ngày (vay truyền thống): là hình thức người vay đến thỏa thuận trực tiếp với T về số tiền vay và lãi suất. Tùy từng đối tượng, mức độ quen biết, T đưa ra mức lãi suất đối với từng người trong khoảng từ 3.000đ đến 5.000đ/1 triệu đồng/ 1 ngày; có thể trả lãi 10 ngày 01 lần hoặc 01 tháng 1 lần bằng hình thức trả trực tiếp cho đến khi người vay trả được gốc thì dừng tính lãi. Sau khi người vay đồng ý với mức lãi suất T đưa ra thì T giao tiền cho người vay, đồng thời đăng nhập vào phần mềm Mecash, nhập thông tin người vay, khoản vay để theo dõi.

- Cho vay bát họ: là hình thức cho vay lãi suất cao, trong đó T sẽ cắt trước tiền lãi tương ứng với 20% số tiền vay (ví dụ vay 10.000.000đ, số tiền lãi cắt trước 2.000.000đ), thời gian vay là 50 ngày, tiền gốc phải trả hàng ngày hoặc tùy thỏa thuận nhưng phải đủ 50 ngày. Sau khi người vay tiền đồng ý với mức lãi suất của T đưa, T giao tiền cho người vay, đồng thời đăng nhập vào phần mềm Mecash, nhập thông tin người vay, khoản vay để theo dõi.

Khi người vay trả lãi hoặc gốc, T đăng nhập phần mềm Mecash, điền thông tin việc trả gốc và lãi của người vay để theo dõi. Khi người vay trả được số tiền lãi và gốc thì khoản vay kết thúc trên phần mềm Mecash. Nếu người vay không trả được gốc và lãi, khoản vay chưa kết thúc, cụ thể:

* Khoản vay của anh Hồ Văn C:

2 - Ngày 20/11/2018, M Văn T cho anh C vay 30.000.000đ; lãi suất 4.000đ/1 triệu/1 ngày (tương đương 146%/năm). Trong khoảng thời gian từ ngày 20/11/2018 đến ngày 10/12/2018, anh C đã trả lãi cho T là 2.520.000đ (trong đó: lãi theo quy định của BLDS là 345.205đ,T thu lợi bất chính số tiền 2.174.795đ), khoản vay này đã kết thúc vào ngày 10/12/2018.

- Ngày 07/01/2019, T cho C vay 20.000.000đ với lãi suất 4.000đ/1 triệu/1 ngày (tương đương 146%/năm). Từ ngày 07/01/2019 đến ngày 19/01/2019, anh C đã trả cho T là 1.040.000đ (trong đó: lãi theo quy định của BLDS là 131.506đ, T thu lợi bất chính số tiền 908.494đ), khoản vay này đã kết thúc vào ngày 19/01/2019.

- Ngày 03/4/2019, T cho anh C vay 40.000.000đ với lãi suất 4.000đ/1 triệu/1 ngày (tương đương 146%/năm), 10 ngày trả lãi một lần. Đến ngày 16/5/2019, anh C trả cho T 04 lần tiền lãi, mỗi lần trả là 1.600.000đ; tổng cộng là 6.880.000đ (trong đó: lãi theo quy định của BLDS là 942.466đ, T thu lợi bất chính số tiền 5.937.534đ); tiền gốc T đã trả được 10.000.000đ. Số tiền gốc còn nợ lại 30.000.000đ T tiếp tục tính lãi là 4.000đ/1 triệu/1 ngày (tương đương 146%/năm). Anh C đã trả lãi đều và đầy đủ cho T. Từ ngày 16/5/2019 đến ngày 07/02/2020, anh C trả cho T số tiền lãi là 32.160.000đ (trong đó: lãi theo quy định của BLDS là 4.405.479đ, T thu lợi bất chính số tiền 27.754.521đ).

Trong ngày 07/02/2020, anh C trả cho T 15.000.000đ tiền gốc, đề nghị T dừng lấy lãi đối với số tiền còn nợ để C trả dần gốc, T đồng ý.

Tổng tiền lãi M Văn T thu đối với khoản tiền 40.000.000đ cho C vay là 39.040.000đ (trong đó tiền lãi theo quy định là 5.347.945đ; thu lợi bất chính là 33.692.055đ). Quá trình điều tra, anh C đề nghị không yêu cầu T trả lại số tiền T thu lãi trái quy định của pháp luật.

* Khoản vay của chị M Thị H: Ngày 05/02/2019, M Văn T cho chị H vay 25.000.000đ (vay bát họ), T cắt trước lãi 5.000.000đ (tương đương 146%/năm; gấp 07 lần mức lãi suất cao nhất theo quy định trong Bộ luật dân sự), chỉ đưa cho chị H 20.000.000đ. Thỏa thuận 02 ngày chị H trả tiền “họ” một lần với số tiền là 1.000.000đ. Từ ngày 05/02/2019 đến ngày 26/3/2019, chị H đã trả cho T 05 kỳ “họ”, mỗi kỳ 1.000.000đ thì không có khả năng trả gốc cho T nữa nên chị đề nghị T chuyển khoản vay bát họ thành vay lãi nhưng T không đồng ý. Tổng tiền lĩa T đã thu của chị H là 5.000.000đ (trong đó: lãi theo quy định là 684.932đ; thu lời bất chính 4.315.068đ). Đến ngày 26/4/2019, sau nhiều lần không thu được gốc và lãi của khoản vay bát họ, T đã đồng ý kết thúc khoản vay “bát họ” của chị H trên phần mềm Mecacsh và chuyển khoản nợ còn lại là 20.000.000đ thành tiền vay lãi, tính lãi suất đối với khoản vay này là 4.000đ/1 triệu/ngày (tương đương 146%/năm) thỏa thuận 10 ngày trả lãi 01 lần, mỗi lần trả 800.000đ. Đồng thời T đưa chị H 01 giấy biên nhận vay tiền, nội dung chị H vay của T số tiền 20.000.000đ, thời hạn vay 03 tháng. Tính từ ngày 26/4/2019 đến ngày 07/3/2022, chị H trả cho T số tiền lãi là 43.200.000đ (trong đó lãi quy định là 5.917.808đ; thu lợi bất chính 37.282.192đ).

Trong ngày 07/3/2022, chị H trả cho T 5.000.000đ tiền gốc. Chị H nói với T gia đình gặp khó khăn, không còn khả năng trả lãi, xin T trả tiền gốc 3 vay và được T đồng ý. Quá trình điều tra, chị H đề nghị không yêu cầu T trả lại số tiền T thu lãi trái quy định của pháp luật.

* Khoản vay của M Văn T1: Ngày 19/10/2018, T cho T1 vay 20.000.000đ, lãi suất 3.000đ/1 triệu/1 ngày (tương ứng 109%/năm). Đến ngày 07/12/2018, anh T1 trả lãi cho T là 3.450.000đ (trong đó: lãi theo quy định là 547.945đ, thu lời bất chính là 2.902.055đ). Do khó khăn nên anh T1 xin không trả lãi, tiền gốc khi nào có thì sẽ trả, T đồng ý.Quá trình điều tra, anh T1 đề nghị không yêu cầu T trả lại số tiền T thu lãi trái quy định của pháp luật.

* Khoản vay T ghi trong hệ thống quản lý người vay “bát họ” là em M (chị Đạt) và lưu số điện thoại 0869.241.222, vay số tiền 10.000.000đ vào ngày 01/3/2019, cắt lãi trước là 2.000.000đ. Ngày 19/4/2019, chị M trả hết số nợ gốc và hợp đồng kết thúc nhưng T khai không nhớ thông tin người này, Cơ quan CSĐT đã tiến hành xác minh ghi lời khai chị M, là người có sử dụng số điện thoại trên nhưng chị M trình bày không vay tiền của ai và cũng không vay tiền của T.

* Khoản vay của anh M Văn H1: Giấy vay tiền ngày 21/6/2023, số tiền 10.000.000đ và 01 hợp đồng vay tiền số tiền vay 150.000.000đ, thời hạn vay là 90 ngày, thanh toán tiền lãi vay vào ngày 22 dương lịch hàng tháng. T và anh H1 đều khai ngày 21/6/2023, anh H1 đến vay T 100.000.000đ để chuẩn bị đám cưới cho con, T đồng ý cho vay và nói lãi suất 0,8%/tháng, T nói anh H1 viết giấy vay tiền. Sau khi T đưa tiền, anh H1 lại hỏi vay thêm 50.000.000đ nên T đưa cho anh hậu một hợp đồng vay ghi số tiền là 150.000.000đ; đến thời điểm bị khám xét khẩn cấp, anh H1 chưa trả tiền lãi cho T.

Số tiền T cho anh C, chị H vay tiền và tính lãi suất cao hơn gấp 07 lần mức lãi suất cao nhất theo quy định của Bộ luật dân sự, cụ thể khoản vay 40.000.000đ, T cho anh C vay từ ngày 01/4/2019 đến ngày 04/02/2020, với lãi suất là 146%/năm, T thu lời bất chính số tiền 33.692.055đ; khoản tiền chị H vay từ ngày 26/4/2019 đến ngày 16/10/2020, số tiền 20.000.000đ, T thu lời bất chính 37.282.192đ. Tổng số tiền T thu lời bất chính của anh C, chị H là 70.974.247đ. Hành vi cho vay nặng lãi với số tiền trên 30.000.000đ của M Văn T đã phạm tội “Cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự” quy định tại khoản 1 Điều 201 của BLHS.

Đối với khoản vay của anh C: ngày 20/11/2018 số tiền 30.000.000đ, kết thúc hợp đồng vay ngày 10/12/2018 và khoản vay 20.000.000đ ngày 07/12/2018, kết thúc hợp đồng vay ngày 19/01/2019; khoản vay “bát họ” T cho chị H vay ngày 05/02/2019 là 20.000.000đ, hợp đồng vay đã kết thúc ngày 26/3/2019; khoản vay 20.000.000đ của anh T1 ngày 19/8/2018, kết thúc hợp đồng vay ngày 07/12/2018; khoản vay 10.000.000đ của chị M ngày 01/3/2019, kết thúc hợp đồng vay ngày 19/4/2019, chị M không thừa nhận chị vay T. Tất cả các khoản vay trên , hợp đồng đã kết thúc vào cuối tháng 4/2019, số tiền T thu lời bất chính đều dưới 30.000.000đ, đến nay đã hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính.

Đối với khoản vay của anh H1, lãi suất cho vay đúng quy định, anh H1 chưa trả lãi cho T, do đó cơ quan C sát điều tra không xem xét xử lý đối với khoản vay này là đúng quy định.

4 Ngoài ra, trên cơ sở các giấy tờ thu được trong quá trình khám xét cũng như các dữ liệu thu trên máy tính của T và căn cứ lời khai của T: từ năm 2019 đến năm 2022, T còn cho một số người trên địa bàn huyện Nga Sơn vay tiền, gồm: anh Phạm Văn Th, sinh năm 1989, ở Thôn Ngoại 2, xã G; anh M Văn H, sinh năm 1997 ở Thôn Yên Lộc, xã Nga Yên; anh M Thanh Giang, sinh năm 1991 ở Thôn Mật Kỳ, xã Nga Trường; anh Phạm Văn Th, sinh năm 1982 ở thôn G, xã G; anh Nguyễn Bá L, sinh năm 1993 ở thôn Từ Sơn, xã T; anh M Văn T, sinh năm 1993 ở Thôn Ngoại 1, xã G. Số tiền T thu lợi bất chính đều dưới 30.000.000đ. Hiện tại những người này đều không có mặt tại địa phương nên Cơ quan C sát điều tra chưa lấy được lời khai, chưa có căn cứ xác minh làm rõ. Nhưng khoản vay này Cơ quan CSĐT sẽ tách tài liệu, giấy tờ liên quan để xác minh và xử lý nếu có đủ căn cứ.

Về giấy tờ thu giữ và xử lý vật chứng vụ án: Bản sao y 02 giấy vay tiền của anh Nguyễn Văn H1; 01 giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cá thể của bị cáo M Văn T và các giấy tờ có liên quan thu giữ trong quá trình khám xét khẩn cấp chỗ ở của T hiện đang được lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

Đối với số tiền bị cáo T đã thu lời bất chính của anh Hồ Văn C là 33.692.055đ, chị M Thị H là 37.282.192đ. Anh C, chị H không yêu cầu T trả lại tiền thu lời bất chính nên không xem xét. Ngoài ra, anh C, chị H có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng đã được triệu tập đến phiên tòa hợp lệ nhưng họ vắng mặt, HĐXX đã công bố lời khai của họ theo quy định.

Tại phiên toà, đại diện VKSND huyện Nga Sơn vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo M Văn T theo cáo trạng số 29/CT-VKSNS, ngày 02/10/2023 về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” theo khoản 1 Điều 201 của Bộ luật hình sự và đề nghị HĐXX:

- Áp dụng: khoản 1 Điều 201; Điều 35; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

điểm g khoản 1 Điều 52 của BLHS, xử phạt tiền bị cáo, số tiền 50.000.000đ đến 55.000.000đ.

Về trách nhiệm dân sự: Số tiền bị cáo T đã thu lợi bất chính của anh Hồ Văn C là 33.692.055đ, chị M Thị H là 37.282.192đ. Anh C, chị H không yêu cầu T trả lại tiền thu lời bất chính nên không xem xét.

Áp dụng: Điều 46; điểm a, b khoản 1 Điều 47 của BLHS; điểm a, b khoản 2 Điều 106 của BLTTHS, tịch thu nộp ngân sách nhà nước: Số tiền bị cáo T dùng để cho vay là 45.000.000đ; tiền lãi tương ứng mức lãi suất cao nhất theo quy định của BLDS mà bị cáo đã thu của người vay là 11.265.753đ; tổng cộng là 56.265.753đ (được trừ đi số tiền 30.000.000đ, bị cáo đã tự nguyện nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nga Sơn), số tiền bị cáo còn phải thực hiện nghĩa vụ là 26.265.753đ và số tiền của anh Hồ Văn C là 15.000.000đ (là tiền nợ gốc còn lại anh vay của bị cáo T nhưng chưa trả).

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với VKS, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tại phiên tòa, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Từ năm 2018 đến tháng 3/2022, M Văn T đã hai lần thực hiện hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự, cụ thể: Lần 1: Ngày 03/4/2019 bị cáo T cho anh Hồ Văn C vay số tiền 40.000.000đ, lãi suất 4.000đ/1 triệu/1 ngày (tương đương 146%/năm, gấp trên 07 lần mức quy định của BLDS). Từ ngày 03/4/2019 đến ngày 07/02/2020, T đã thu lãi của khoản vay này là 39.040.000đ, trong đó tiền lãi theo quy định là 5.347.945đ; thu lợi bất chính là 33.692.055đ. Lần 2: ngày 26/4/2019, T cho chị M Thị H vay 20.000.000đ, lãi suất 4.000đ/1 triệu/1 ngày (tương đương 146%/năm, gấp trên 07 lần mức quy định của BLDS). Từ ngày 26/4/2019 đến ngày 07/3/2022, T đã thu số tiền lãi 43.200.000đ, trong đó tiền lãi theo quy định là 5.917.808đ; thu lợi bất chính là 37.282.192đ.

Tổng số tiền bị cáo sử dụng cho vay lãi nặng đối với anh C, chị H là 60.000.000đ. Chị H đã trả hết cho T 20.000.000đ; anh C đã trả cho T 25.000.000đ, anh C còn nợ lại T 15.000.000đ tiền gốc. Số tiền lãi T đã thu của anh C và chị H là 82.240.000đ, trong đó lãi theo quy định là 11.265.753đ; thu lợi bất chính là 70.974.247đ. Hành vi cho vay tiền với mức lãi suất nêu trên của M Văn T đã cấu thành tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 201 của BLHS như nội dung cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Lợi dụng từ việc người vay có nhu cầu cần sử dụng vốn để hoạt động kinh doanh, bị cáo đã sử dụng tiền của bị cáo cho vay lại với lãi suất cao nhằm thu lời bất chính. Tuy vụ án thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nhưng hành vi cho vay lãi suất cao của bị cáo diễn ra tại thời điểm loại tội phạm và vi phạm pháp luật liên quan đến tín dụng đen có chiều hướng gia tăng đột biến, gây tác động gián tiếp đến nhiều tội phạm khác trong xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước, gây bất bình trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng không nhỏ tới công tác đấu tranh, phòng chống các tệ nạn xã hội. Đặc biệt tác động mạnh đến công tác đấu tranh và phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật liên quan đến tín dụng đen.

Bị cáo T là người có đầy đủ năng lực pháp luật, biết rõ việc cho vay lãi nặng bị pháp luật nghiêm cấm, vì mục đích hám lời bị cáo có thái độ xem thường pháp luật nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, cần có hình phạt tương xứng với mức độ phạm tội của bị cáo.

[3] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Xét nhân thân: bị cáo có nhân thân tốt;

6 - Xét tình tiết tăng nặng: bị cáo phạm tội hai lần trở lên nên chịu tình tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của BLHS.

- Xét tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về việc làm của mình; Bị cáo đã nhận thức sai phạm nên ngày 02/10/2023, đã nộp số tiền 30.000.000đ tại chi cục thi hành án dân sự huyện Nga Sơn để khắc phục một phần hậu quả; bị cáo đầu thú; người bị hại anh C, chị H đều có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Ngoài ra, gia đình bị cáo bố chết, vợ chồng đang sống cùng mẹ già, còn nuôi con nhỏ. Bản thân bị cáo từng bị người khác gây thương tích vùng đầu (bị đâm thủng sọ) phải điều trị dài ngày, sức khỏe yếu, không lao động nặng được. Bố bị cáo là ông M Văn Quát được Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa tặng Bằng khen đã có thành tích tham gia trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.

[4] Từ những căn cứ nêu trên, xét thấy cần áp dụng Điều 35 của BLHS phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp quy định của pháp luật.

[5] Đối với người có quyền lợi và người làm chứng đã được triệu tập đến phiên tòa hợp lệ nhưng họ vắng mặt. Tuy nhiên, họ đã có lời khai đầy đủ tại cơ quan điều tra, sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến quá trình xét xử vụ án nên HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt họ.

[6] Số tiền bị cáo T đã thu thực tế của anh Hồ Văn C là 33.692.055đ, chị M Thị H là 37.282.192đ. Anh C, chị H không yêu cầu T trả lại tiền thu lời bất chính nên HĐXX không xem xét.

[7] Biện pháp tư pháp:

- Truy thu số tiền bị cáo T dùng để cho vay là 45.000.000đ; tiền lãi tương ứng mức lãi suất cao nhất theo quy định của BLDS mà bị cáo đã thu của người vay là 11.265.753đ; tổng cộng là 56.265.753đ, nộp ngân sách Nhà nước;

- Truy thu số tiền của anh Hồ Văn C là 15.000.000đ là tiền nợ gốc còn lại vay của bị cáo T nhưng chưa trả, nộp ngân sách Nhà nước.

[8] Về tài liệu giấy tờ liên quan: Bản sao y 02 giấy vay tiền của anh Nguyễn Văn H1; 01 giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cá thể của bị cáo M Văn T và các giấy tờ có liên quan thu giữ trong quá trình khám xét khẩn cấp chỗ ở của T hiện đang được lưu giữ trong hồ sơ vụ án.

[9] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục và căn cứ theo quy định tại các Điều 37; Điều 42 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ: Khoản 1 Điều 201; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 35 của Bộ luật hình sự;

* Tuyên bố: Bị cáo M Văn T phạm tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự ”.

7 * Xử phạt: Bị cáo M Văn T số tiền 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng).

* Biện pháp tư pháp: Áp dụng điều 46; khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, b khoản 2 Điều 106 của BLTTHS:

- Truy thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền của bị cáo T dùng để cho vay là 45.000.000đ; tiền lãi tương ứng mức lãi suất cao nhất theo quy định của BLDS mà bị cáo đã thu của người vay là 11.265.753đ; tổng cộng là 56.265.753đ, nhưng được trừ đi số tiền 30.000.000đ theo biên lai thu số AA/2021/0007384, ngày 02/10/2023. Buộc bị cáo còn phải nộp số tiền còn lại là 26.265.753đ (Hai sáu triệu hai trăm sáu lăm nghìn bảy trăm năm ba đồng);

- Truy thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền của anh Hồ Văn C là 15.000.000đ là tiền nợ gốc còn lại vay của bị cáo T nhưng chưa trả.

* Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 và danh mục án phí, lệ phí ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: buộc bị cáo T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.

* Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 BLTTHS, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự số 30/2023/HS-ST

Số hiệu:30/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về