Bản án về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự số 24/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ CỬA LÒ, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 24/2023/HS-ST NGÀY 28/09/2023 VỀ TỘI CHO VAY LÃI NẶNG TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ

Ngày 28 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở tòa án nhân dân, thị xã C, tỉnh Nghệ An, mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 24/2023/HSST ngày 15 tháng 9 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 94/QĐXXST - HS ngày 15 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thị Hoài M; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nữ. Sinh ngày 08 tháng 6 năm 1993, tại thị xã C, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: K, phường T, thị xã C, tỉnh Nghệ An. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa giáo. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: Lớp 12/12. Họ và tên cha: Nguyễn Văn B, sinh năm 1966. Họ và tên mẹ: Lê Thị C, đã chết. Anh, chị, em ruột: có 02 người, bị cáo là con đầu. Chồng: Phùng Minh S, sinh năm 1991 (đã ly hôn). Con: Có 02 người con, lớn 06 tuổi, nhỏ 07 tháng tuổi. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo Nguyễn Thị Hoài M bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú và tạm hoãn xuất cảnh kể từ ngày 04/5/2023 đến nay. Có mặt tại phiên toà.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Phan Thị Hoài T, sinh năm 1995 Nơi ĐKHKTT: khối C, phường T, thị xã C, tỉnh Nghệ An Nơi ở hiện nay: khối G, phường N, thị xã C, tỉnh Nghệ An. Có mặt.

2. Chị Lê Thị Lý M1, sinh năm 1985 Trú tại: xóm B, xã N, thành phố V, tỉnh Nghệ An. Có mặt khi xét xử, vắng mặt khi tuyên án.

3. Chị Nguyễn Thị T1, sinh năm 1995 Trú tại: khối Đ, phường N, thị xã C, tỉnh Nghệ An. Có mặt.

Người làm chứng:

1. Chị Võ Thị H, sinh năm 1992 Địa chỉ: khối B, phường T, thị xã C, tỉnh Nghệ An.

2. Nguyễn Thị H1, sinh năm 1975 Nơi ĐKHKTT: khối C, phường T, thị xã C, tỉnh Nghệ An Nơi ở hiện nay: khối 01, phường Thu Thủy, thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An 3. Lê Xuân T2, sinh năm 1974 Nơi ĐKHKTT: khối C, phường T, thị xã C, tỉnh Nghệ An Nơi ở hiện nay: khối 01, phường Thu Thủy, thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An 4. Nguyễn Thị Hoài B1, sinh năm 1992 Trú tại: khối 03, phường Thu Thủy, thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An 5. Nguyễn Thị Thu U, sinh năm 2000 Nơi ĐKHKTT: khối C, phường T, thị xã C, tỉnh Nghệ An Nơi ở hiện tại: xóm D, xã N, thành phố V, tỉnh Nghệ An 6. Nguyễn Thị Mai S1, sinh năm 1991 Trú tại: khối 03, phường Thu Thủy, thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An 7. Trần Thị Hoa M2, sinh năm 1991 Trú tại: khối 04, phường Thu Thủy, thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An 8. Đào Thị Hoài M3, sinh năm 1995 Trú tại: khối Đông Tiến, phường Nghi Thủy, thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An 9. Hoàng Thị L, sinh năm 1994 Trú tại: khối T, phường N, thị xã C, tỉnh Nghệ An 10. Nguyễn Ngọc T3, sinh năm 1987 Trú tại: khối B, phường T, thị xã C, tỉnh Nghệ An 11. Dương Văn T4, sinh năm 1985 12. Trú tại: khối Đ, phường N, thị xã C, tỉnh Nghệ An 13. Nguyễn Sỹ P, sinh năm 1982 Trú tại: khối C, phường T, thị xã C, tỉnh Nghệ An 14. Đậu Trung H2, sinh năm 1991 Nơi ĐKHKTT: khối B, phường N, thị xã C, tỉnh Nghệ An Nơi ở hiện tại: khối 03, phường Thu Thủy, thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An 15. Trần Thị H3, sinh năm 1990 Trú tại: khối 03, phường Thu Thủy, thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An 16. Hoàng Quốc V, sinh năm 2001 Nơi ĐKHKTT: xóm T, xã K, huyện N, tỉnh Nghệ An.

Nơi ở hiện nay: khối 01, phường Thu Thủy, thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An 17. Phan Thị V1, sinh năm 1992 Trú tại: khối C, phường T, thị xã C, tỉnh Nghệ An.

(Những người làm chứng vng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, trong quá trình xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ đầu năm 2021 đến tháng 4 năm 2023, Nguyễn Thị Hoài M cho người khác vay tiền với lãi suất từ 104%/01 năm đến 144%/01 năm, trả lãi theo từng tháng (mỗi tháng tính 30 ngày), cao gấp 5,2 lần đến 7,2 lần so với mức lãi suất cho vay tối đa theo quy định của Bộ luật dân sự.

Phương thức, thủ đoạn của M là người có nhu cầu vay tiền sẽ trực tiếp gặp để thỏa thuận số tiền vay và mức lãi. Khi thỏa thuận được khoản vay và lãi suất, Mơ đưa tiền mặt hoặc chuyển khoản ngân hàng cho người vay thông qua tài khoản ngân hàng V2 số 102575759999 và tài khoản số 107002365223 đều mang tên Nguyễn Thị Hoài M. Hình thức trả lãi thường là cắt tiền lãi trước tháng đầu tiên hoặc đến cuối tháng thì trả tiền lãi bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản vào 02 tài khoản ngân hàng trên.

Mơ đã cho 03 người dân vay tiền để thu lợi bất chính, cụ thể như sau:

Người thứ 1 là chị Lê Thị Lý M1, sinh năm 1985, trú tại xóm B, xã N, thành phố V, tỉnh Nghệ An.

Ngày 11/9/2022, chị Lý M1 vay số tiền 100.000.000 đồng với lãi suất 9.000.000 đồng/01 tháng, tương đương 108%/01 năm. Hiện chị M1 đã trả 07 tháng tiền lãi đến ngày 11/4/2023 là 63.000.000 đồng, chưa trả tiền gốc. Kể từ ngày 12/4/2023, do khó khăn về kinh tế, chị Lê Thị L1 Mơ thỏa thuận với Nguyễn Thị Hoài M không trả tiền lãi nữa, Nguyễn Thị Hoài M đồng ý. Số tiền lãi tối đa theo quy định của Bộ luật dân sự là 11.666.666 đồng và số tiền thu lợi bất chính là 51.333.334 đồng (năm mươi mốt triệu, ba trăm ba mươi ba nghìn, ba trăm ba mươi tư đồng).

Người thứ 2 là chị Nguyễn Thị T1, sinh năm 1995, trú tại khối Đ, Phường N, thị xã C, tỉnh Nghệ An - Ngày 29/10/2021, chị T1 vay số tiền 100.000.000 đồng với lãi suất 9.000.000 đồng/01 tháng, tương đương 108%/01 năm. Chị T1 trả tiền lãi 04 tháng đến ngày 29/02/2022 với số tiền 36.000.000 đồng. Số tiền lãi tối đa theo quy định của Bộ luật dân sự là 6.666.666 đồng và số tiền thu lợi bất chính là 29.333.334 đồng. Từ tháng 3/2022 trở đi, gộp với các khoản vay khác để tính lãi chung.

- Ngày 05/12/2021, chị T1 vay số tiền 50.000.000 đồng với lãi suất 4.500.000 đồng/01 tháng, tương đương 108%/01 năm. T1 đã trả 02 tháng tiền lãi đến 05/02/2022 là 9.000.000 đồng, số tiền lãi tối đa theo quy định của Bộ luật dân sự là 1.666.666 đồng và số tiền thu lợi bất chính là 7.333.334 đồng. Từ tháng 3/2022 trở đi, gộp với các khoản vay khác để tính lãi chung.

- Ngày 26/12/2021, chị T1 vay số tiền 50.000.000 đồng với lãi suất 4.500.000 đồng/01 tháng, tương đương 108%/01 năm. T1 đã trả 02 tháng đến 26/02/2022 tiền lãi là 9.000.000 đồng, số tiền lãi tối đa theo quy định của Bộ luật dân sự là 1.666.666 đồng và số tiền thu lợi bất chính là 7.333.334 đồng. Từ tháng 3/2022 trở đi, gộp với các khoản vay khác để tính lãi chung.

- Ngày 31/12/2021, chị T1 vay số tiền 100.000.000 đồng với lãi suất 9.000.000 đồng/01 tháng, tương đương 108%/01 năm. Chị T1 đã trả 02 tháng đến 28/02/2021 tiền lãi với số tiền 18.000.000 đồng, số tiền lãi tối đa theo quy định của Bộ luật dân sự là 3.333.333 đồng và số tiền thu lợi bất chính là 14.666.667 đồng. Từ tháng 3/2022 trở đi, gộp với các khoản vay khác để tính lãi chung.

- Tháng 3/2022, Mơ gộp các khoản vay của T1 để tính lãi chung, tổng số tiền là 300.000.000 đồng, Mơ tính lãi suất 27.000.000 đồng/01 tháng, nhưng do khó khăn về kinh tế nên T1 thỏa thuận với Mơ tính lãi 26.000.000 đồng/1 tháng tương đương 104%/01 năm, M đồng ý. T1 đã trả 26.000.000 đồng tiền lãi và 166.000.000 đồng tiền gốc. Số tiền lãi tối đa theo quy định của Bộ luật dân sự là 5.000.000 đồng đồng và số tiền thu lợi bất chính là 21.000.000 đồng.

Từ tháng 4/2022 trở đi do khó khăn về kinh tế, chị T1 thỏa thuận với Mơ giảm lãi suất xuống 2.500 đồng/01 triệu/ 01 ngày tương đương 90%/01 năm, M đồng ý.

Tổng số tiền T1 vay của M là 300.000.000 đồng, phải trả tổng số tiền lãi là 98.000.000 đồng, số tiền lãi tối đa 20%/01 năm theo quy định của Bộ luật dân sự là 18.333.331 đồng và số tiền thu lợi bất chính là 79.666.669 đồng. Hiện T1 đã trả 98.000.000 đồng tiền lãi, 166.000.000 đồng tiền gốc.

Người thứ 3 là chị Phan Thị Hoài T, sinh năm 1995, trú tại khối C, phường T, thị xã C, tỉnh Nghệ An - Ngày 03/01/2021, T vay số tiền 50.000.000 đồng với lãi suất 3.000 đồng/01 triệu/01 ngày (4.500.000 đồng/tháng) tương đương 108%/năm. T đã trả 20 tháng tiền lãi đến ngày 03/9/2022 là 90.000.000 đồng, chưa trả tiền gốc. số tiền lãi tối đa theo quy định của Bộ luật dân sự là 16.666.666 đồng và số tiền thu lợi bất chính là 73.333.334 đồng.

- Ngày 11/10/2021, T vay số tiền 60.000.000 đồng với lãi suất 4.000 đồng/01 triệu/01 ngày (7.200.000 đồng/tháng) tương đương 144%/năm. T đã trả 11 tháng tiền lãi đến ngày 11/9/2022 là 79.200.000 đồng, chưa trả tiền gốc. Số tiền lãi tối đa theo quy định của Bộ luật dân sự là 11.000.000 đồng và số tiền thu lợi bất chính là 68.200.000 đồng.

- Ngày 09/12/2021, T vay số tiền 100.000.000 đồng với lãi suất 3.000 đồng/01 triệu/01 ngày (9.000.000 đồng/tháng) tương đương 108%/năm. T đã trả 09 tháng tiền lãi đến ngày 09/9/2022 là 81.000.000 đồng, chưa trả tiền gốc. Số tiền lãi tối đa theo quy định của Bộ luật dân sự là 15.000.000 đồng và số tiền thu lợi bất chính là 66.000.000 đồng.

- Ngày 11/12/2021, T vay số tiền 150.000.000 đồng với lãi suất 4.000 đồng/01 triệu/01 ngày (18.000.000 đồng/tháng) tương đương 144%/năm. T đã trả 09 tháng tiền lãi đến ngày 11/9/2022 là 162.000.000 đồng, chưa trả tiền gốc. số tiền lãi tối đa theo quy định của Bộ luật dân sự là 22.500.000 đồng và số tiền thu lợi bất chính là 139.500.000 đồng.

- Ngày 11/12/2021, T vay thêm số tiền 50.000.000 đồng với lãi suất 3.000 đồng/01 triệu/01 ngày (4.500.000 đồng/tháng) tương đương 108%/năm. T đã trả 09 tháng tiền lãi đến ngày 11/9/2022 là 40.500.000 đồng, chưa trả tiền gốc. số tiền lãi tối đa theo quy định của Bộ luật dân sự là 7.500.000 đồng và số tiền thu lợi bất chính là 33.000.000 đồng.

- Ngày 12/01/2022, T vay số tiền 120.000.000 đồng với lãi suất 3.000 đồng/01 triệu/01 ngày (10.800.000 đồng/tháng) tương đương 108%/năm. T đã trả 08 tháng tiền lãi đến ngày 12/9/2022 là 86.400.000 đồng, chưa trả tiền gốc. số tiền lãi tối đa theo quy định của Bộ luật dân sự là 16.000.000 đồng và số tiền thu lợi bất chính là 70.400.000 đồng.

Vào ngày 12/9/2022, Phan Thị Hoài T mất khả năng trả nợ nên thỏa thuận với Nguyễn Thị Hoài M trả lãi tháng 9/2022 đối với 06 khoản vay trên rồi không tiếp tục tính lãi tháng sau và không cần trả lãi đối với 05 khoản vay chưa đến ngày trả lãi trong tháng, chỉ cần trả tiền gốc, M đồng ý. Cụ thể, 05 khoản vay sau:

- Ngày 13/10/2021, T vay số tiền 40.000.000 đồng với lãi suất 4.000 đồng/01 triệu/01 ngày (4.800.000 đồng/tháng) tương đương 144%/năm. T đã trả 10 tháng tiền lãi đến ngày 13/8/2022 là 48.000.000 đồng, chưa trả tiền gốc. số tiền lãi tối đa theo quy định của Bộ luật dân sự là 6.666.666 đồng và số tiền thu lợi bất chính là 41.333.334 đồng.

- Ngày 15/12/2021, T vay số tiền 45.000.000 đồng với lãi suất 3.000 đồng/01 triệu/01 ngày (4.050.000 đồng/tháng) tương đương 108%/năm. T đã trả 08 tháng tiền lãi đến ngày 15/8/2022 là 32.400.000 đồng, chưa trả tiền gốc. Số tiền lãi tối đa theo quy định của Bộ luật dân sự là 6.000.000 đồng và số tiền thu lợi bất chính là 26.400.000 đồng.

- Ngày 20/12/2021, T vay số tiền 100.000.000 đồng với lãi suất 3.000 đồng/01 triệu/01 ngày (9.000.000 đồng/tháng) tương đương 108%/năm. T đã trả 08 tháng tiền lãi đến ngày 20/8/2022 là 72.000.000 đồng, chưa trả tiền gốc. Số tiền lãi tối đa theo quy định của Bộ luật dân sự là 13.333.333 đồng và số tiền thu lợi bất chính là 58.666.667 đồng.

- Ngày 27/12/2021, T vay số tiền 100.000.000 đồng với lãi suất 3.000 đồng/01 triệu/01 ngày (9.000.000 đồng/tháng) tương đương 108%/năm. T đã trả 08 tháng tiền lãi đến ngày 27/8/2022 là 72.000.000 đồng, chưa trả tiền gốc. Số tiền lãi tối đa theo quy định của Bộ luật dân sự là 13.333.333 đồng và số tiền thu lợi bất chính là 58.666.667 đồng.

- Ngày 13/01/2022, T vay số tiền 70.000.000 đồng với lãi suất 3.000 đồng/01 triệu/01 ngày (6.300.000 đồng/tháng) tương đương 108%/năm. T đã trả 07 tháng tiền lãi đến ngày 13/8/2022 là 44.100.000 đồng, chưa trả tiền gốc. Số tiền lãi tối đa theo quy định của Bộ luật dân sự là 8.166.666 đồng và số tiền thu lợi bất chính là 35.933.334 đng.

Tổng số tiền T vay của M là 885.000.000 đồng, phải trả tổng số tiền lãi là 807.600.000 đồng, số tiền lãi tối đa 20%/01 năm theo quy định của Bộ luật dân sự là 136.166.664 đồng và số tiền thu lợi bất chính là 671.433.336 đồng. Hiện T đã trả hết tiền lãi, chưa trả tiền gốc.

Tổng số tiền M cho 03 người vay trên là 1.285.000.000 đồng, số tiền lãi buộc những người vay phải trả là 968.600.000 đồng. Theo quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định mức lãi suất hợp pháp cao nhất là 20%/năm đối với khoản tiền vay. Số tiền lãi hợp pháp Mơ được phép thu từ việc cho vay là 166.166.661 đồng. Như vậy, tổng số tiền thu lợi bất chính mà Nguyễn Thị Hoài M phải chịu trách nhiệm hình sự là 802.433.339 đồng (Tám trăm linh hai triệu bốn trăm ba mươi ba nghìn ba trăm ba mươi chín đồng).

Vật chứng, tài sản thu giữ:

- 01 (một) điện thoại di động Iphone 12 Pro max, màu xanh, đã qua sử dụng, có số Imeil: 3590156320837xx, số imei2: 3590156322112xx, bên trong có lắp sim số 03931400xx, thu giữ của Nguyễn Thị Hoài M. Hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng Công an thị xã C.

Về dân sự: Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan yêu cầu xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại bản cáo trạng số 23/CT-VKS-CL ngày 13/9/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Cửa Lò đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Hoài M về tội "Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự" quy định tại khoản 2 Điều 201 Bộ luật Hình sự Tại phiên tòa, đại diện viện kiểm sát giữ quyền công tố, giữ nguyên quan điểm truy tố về tội danh, đề nghị hội đồng xét xử: Căn cứ vào khoản 2 Điều 201; điểm n, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Hoài M từ 06 đến 09 tháng tù. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, không có tài sản gì có giá trị nên không phạt tiền bị cáo.

Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; đề nghị:

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước:

- 01 (một) điện thoại di động Iphone 12 Pro max, màu xanh, đã qua sử dụng, có số Imeil: 3590156320837xx, số Imei2: 3590156322112xx, bên trong có lắp sim số 03931400xx, thu giữ của Nguyễn Thị Hoài M.

* Về xử lý tiền liên quan trực tiếp đến tội phạm:

- Áp dụng khoản 2 Điều 47 BLHS: Buộc Nguyễn Thị Hoài M phải trả lại cho người vay tiền thu lợi bất chính (số tiền lãi vượt mức 20%/năm), cụ thể:

+ Trả cho chị Lê Thị L1 Mơ số tiền 51.333.334 đồng.

+ Trả cho chị Nguyễn Thị T1 số tiền 79.666.669 đồng;

+ Trả cho chị Phan Thị Hoài T số tiền 671.433.336 đồng;

- Truy thu sung quỹ nhà nước số tiền Nguyễn Thị Hoài M dùng để cho vay, là 1.285.000.000 đồng. Cụ thể:

+ Truy thu từ Lê Thị L1 Mơ số tiền 100.000.000 đồng;

+ Truy thu từ Nguyễn Thị T1 số tiền 134.000.000 đồng;

+ Truy thu từ chị Phan Thị Hoài T số tiền 885.000.000 đồng;

+ Truy thu từ bị cáo Nguyễn Thị Hoài M số tiền 166.000.000 đồng - Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm b khoản 2 Điều 106 BLTTHS: tịch thu, truy thu từ bị cáo Nguyễn Thị Hoài M tiền lãi tương ứng mức cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự đã thu của người vay là: 166.166.661 đồng, trong đó: số tiền 11.666.666 đồng do Lê Thị Lý M1 đã trả, T1 đã trả 18.333.331 và Phan Thị T 136.166.664 đồng .

Tổng số tiền truy thu từ bị cáo Nguyễn Thị Hoài M là 332.166.661 đồng Tại phiên tòa bị cáo nhận tội, không tranh luận gì mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt. Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không tranh luận về việc truy thu, đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an thị xã C, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Cửa Lò, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà, bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều được thực hiện hợp pháp.

[2]. Về việc vắng mặt những làm chứng: người làm chứng đã được To à án triệu tập hợp lệ; tuy nhiên vẫn vắng mặt không rõ lý do. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 293 Bộ luật Tố tụng Hình sự xét xử vắng mặt họ.

[3]. Về căn cứ xác định hành vi phạm tội:

Tại phiên toà, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng truy tố. Xét lời khai của bị cáo tại phiên to à phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở để kết luận:

Từ đầu năm 2021 đến tháng 4 năm 2023, Nguyễn Thị Hoài M cho người khác vay tiền với lãi suất vay 104%/01 năm đến 144%/01 năm, cao gấp 5,2 lần đến 7,2 lần so với mức lãi suất cho vay tối đa theo quy định của Bộ luật dân sự. Cụ thể, M đã cho: chị Lê Thị Lý M1, sinh năm 1985, trú tại xóm B, xã N, thành phố V, tỉnh Nghệ An, chị Nguyễn Thị T1, sinh năm 1995, trú tại khối Đ, Phường N, thị xã C, tỉnh Nghệ An, chị Phan Thị Hoài T, sinh năm 1995, trú tại khối C, phường T, thị xã C, tỉnh Nghệ An vay tổng số tiền 1.285.000.000 đồng, để thu số tiền lãi 968.600.000 đồng, số tiền thu lợi bất chính mà Nguyễn Thị Hoài M phải chịu trách nhiệm hình sự là 802.433.339 đồng (Tám trăm linh hai triệu bốn trăm ba mươi ba nghìn ba trăm ba mươi chín đồng).

Nguyễn Thị Hoài M đã cho nhiều người vay tiền với mức lãi suất gấp 05 lần trở lên mức lãi suất cao nhất quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự, với số tiền thu lợi bất chính trên 200.000.000 đồng, do vậy đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” được quy định tại khoản 2 Điều 201 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4]. Về tính chất vụ án; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Vụ án thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hiểm lớn cho xã hội; đã xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của tài chính nói riêng; xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của nhà nước nói chung; gây hoang mang trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến tình hình trị an trên địa bàn; do đó cần phải xét xử bị cáo mức án nghiêm mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Về tình tiết tăng nặng: bị cáo Nguyễn Thị Hoài M thực hiện nhiều lần hành vi cho vay lãi nặng, trong đó có 10 lần thu lợi bất chính số tiền trên 30.000.000 đồng; có 01 lần thu lợi bất chính số tiền trên 100.000.000đ nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

về tình tiết giảm nhẹ: Xét quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội khi đang mang thai. Bị cáo có ông ngoại được Ủy ban mặt trận tổ quốc huyện N tặng giấy khen vì đã có thành tích trong công cuộc chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là các tình tiết được quy định tại điểm s, n khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cần xem xét áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Bị cáo hiện đã ly hôn, mẹ bị cáo vừa mất, bố ốm đau bệnh tật đang ở nước ngoài, bị cáo một mình nuôi hai con nhỏ, hoàn cảnh khó khăn. Do đó, cần xem xét xử phạt bị cáo đầu khung hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa cũng đủ nghiêm, vừa thể hiện tính nhân đạo và khoan hồng của pháp luật.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản gì lớn lại đang một mình nuôi hai con nhỏ nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về vật chứng:

- Đối với 01 (một) điện thoại di động Iphone 12 Pro max, màu đen, đã qua sử dụng, có số Imeil: 3590156320837xx, số imei2: 3590156322112xx, bên trong có lắp sim số 03931400xx, thu giữ của Nguyễn Thị Hoài M là phương tiện liên quan đến việc phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[7]. Về xử lý tiền liên quan trực tiếp đến tội phạm:

- Buộc Nguyễn Thị Hoài M phải trả lại cho người vay tiền thu lợi bất chính (số tiền lãi vượt mức 20%/năm), cụ thể:

+ Trả cho Lê Thị L1 Mơ số tiền 51.333.334 đồng;

+ Trả cho Nguyễn Thị T1 số tiền 79.666.669 đồng;

+ Trả cho chị Phan Thị Hoài T số tiền 671.433.336 đồng;

- Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền Nguyễn Thị Hoài M dùng để cho vay, là 1.285.000.000đ (một tỷ hai trăm tám mươi lăm triệu đồng). Cụ thể:

+ Truy thu từ chị Lê Thị L1 Mơ số tiền 100.000.000 đồng;

+ Truy thu từ chị Nguyễn Thị T1 số tiền 134.000.000 đồng;

+ Truy thu từ chị Phan Thị Hoài T số tiền 885.000.000 đồng;

+ Truy thu từ bị cáo Nguyễn Thị Hoài M số tiền 166.000.000 đồng;

- Tịch thu sung quỹ nhà nước tiền lãi tương ứng mức cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự mà Nguyễn Thị Hoài M đã thu của người vay, là: 166.166.6614 (một trăm sáu mươi sáu triệu một trăm sáu mươi sáu nghìn sáu trăm sáu mốt đồng).

[8]. Về án phí: Căn cứ vào Điều 12, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, buộc bị cáo Nguyễn Thị Hoài M phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 2 Điều 201 Bộ luật Hình sự; điểm s, n khoản 1, khoản 2 Điều 51; đim g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự:

- Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

- Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, min, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh và hình phạt:

Xử phạt Nguyễn Thị Hoài M 06 (sáu) tháng tù về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án. Không phạt tiền bị cáo.

2. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (một) máy điện thoại di động nhãn hiệu lphone 12 Pro max, màu đen, có số Imeil: 3590156320837xx, số imei2: 3590156322112xx, bên trong có lắp sim số 03931400xx, thu giữ của Nguyễn Thị Hoài M. (Vật chứng nêu trên hiện đang được bảo quản tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Cửa Lò theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/9/2023).

3. Về xử lý tiền liên quan trực tiếp đến tội phạm:

- Buộc Nguyễn Thị Hoài M phải trả lại cho người vay tiền thu lợi bất chính (số tiền lãi vượt mức 20%/năm), cụ thể:

+ Trả cho chị Lê Thị L1 Mơ số tiền 51.333.334 đồng.

+ Trả cho Nguyễn Thị T1 số tiền 79.666.669 đồng;

+ Trả cho chị Phan Thị Hoài T số tiền 671.433.336 đồng;

- Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền Nguyễn Thị Hoài M dùng để cho vay, là 1.285.000.000đ (một tỷ hai trăm tám mươi lăm triệu đồng). Cụ thể:

+ Truy thu từ chị Lê Thị L1 Mơ số tiền 100.000.000 đồng;

+ Truy thu từ chị Nguyễn Thị T1 số tiền 134.000.000 đồng;

+ Truy thu từ chị Phan Thị Hoài T số tiền 885.000.000 đồng;

+ Truy thu từ bị cáo Nguyễn Thị Hoài M số tiền 166.000.000 đồng;

- Tịch thu sung quỹ nhà nước tiền lãi tương ứng mức cao nhất theo quy định của Bộ luật Dân sự mà Nguyễn Thị Hoài M đã thu của người vay, là: 166.166.661đ (một trăm sáu mươi sáu triệu một trăm sáu mươi sáu nghìn sáu trăm sáu mốt đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 6, điều 7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Thị Hoài M phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự số 24/2023/HS-ST

Số hiệu:24/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Cửa Lò - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về