TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 195/2023/HS-PT NGÀY 06/11/2023 VỀ TỘI CHO VAY LÃI NẶNG TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ
Ngày 06 tháng 11 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh H mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 245/2023/TLPT-HS ngày 27 tháng 9 năm 2023 do Bản án hình sự sơ thẩm số 55/2023/HS-ST ngày 22/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh H bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 228/2023/QĐXXPT-HS ngày 16 tháng 10 năm 2023, đối với:
* Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Lê Khắc Ứ, tên gọi khác: Không - Sinh năm 1976 tại xã H, huyện H, tỉnh H.
Nơi cư trú: Thôn B, xã Q, huyện Q, tỉnh H; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ học vấn: 6/10; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Lê Khắc Đ (Đã chết); Con bà Lê Thị T (SN 1945); Vợ cũ Lê Thị T1 (SN 1979 - đã ly hôn); Vợ hiện tại: Hoàng Thị H (SN 1981). Có 3 con (Lớn nhất SN 2005, nhỏ nhất SN 2010); Tiền án; Tiền sự: Không.
Nhân thân: - Ngày 18/10/2010, bị TAND TP. H xử phạt 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 35 tháng 18 ngày về tội “Trộm cắp tài sản”.
- Ngày 07/8/2012, bị TAND huyện Hà Trung, tỉnh H xử phạt 10 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp với 18 tháng tù cho hưởng án treo của Bản án số 230/2010/HSST ngày 18/10/2010 của TAND thành phố H. Buộc Lê Khắc Ứ phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 28 tháng tù (ngày 05/10/2014 chấp hành xong hình phạt tù; Ngày 13/01/2011 và ngày 07/9/2012 chấp hành xong án phí HSST).
Bị bắt tạm giữ; Tạm giam từ ngày 29/3/2023 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh T (Có mặt).
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (Không kháng cáo):
1. Chị Trần Thị P, sinh năm 1974.
2. Anh Nguyễn Xuân T2, sinh năm 1981.
3. Anh Viên Đình L, sinh năm 1975.
4. Ông Viên Đình H1, sinh năm 1968.
Đều trú tại: Thôn H, xã Q, huyện Q, tỉnh H (Đều vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do muốn thu lời bất chính nên Lê Khắc Ứ nảy sinh ý định sử dụng tiền cá nhân của mình cho khách vay để lấy lãi cao. Từ tháng 02/2017 đến tháng 3/2023, Lê Khắc Ứ đã cho 04 người trên địa bàn huyện Q vay tiền với lãi suất 3.000đ/triệu/ngày, tương đương với mức lãi suất 109,5%/năm, gấp 5,5 lần so với mức lãi suất cao nhất quy định tại Điều 468 Bộ luật Dân sự (BLDS) nhằm thu lời bất chính, cụ thể như sau:
1. Lê Khắc Ứ cho chị Trần Thị P vay 02 lần tiền, cụ thể:
- Ngày 13/7/2021, chị Trần Thị P vay 10.000.000đ, không ấn định thời gian trả nợ gốc, với lãi suất 900.000đ/tháng (3.000đ/triệu/ngày). Khi cho chị P vay, Ứ không cắt trước tiền lãi và tiền hồ sơ.
Tính từ ngày vay đến ngày 29/3/2023, (20 tháng 16 ngày), tổng số tiền lãi chị P phải trả cho Ứ theo thỏa thuận là 18.480.000đ; tuy nhiên chị P mới trả được 02 tháng tiền lãi là 1.800.000đ. Theo mức lãi suất tối đa BLDS quy định, số tiền lãi hợp pháp tương ứng với 02 tháng lãi là 328.767đ, số tiền lãi quy định tương ứng mức lãi suất cao nhất mà Ứ được hưởng là 3.375.342đ. Số tiền Ứ nhằm thu lời bất chính là 15.104.658đ. Hiện tại chị P còn nợ 10.000.000đ tiền gốc và 16.680.000đ tiền lãi.
- Ngày 16/12/2021, chị P vay tiếp 10.000.000đ, không ấn định thời gian trả nợ gốc, với lãi suất 900.000đ/tháng (3.000đ/triệu/ngày),tương ứng mức lãi suất 109.5%/năm, gấp 5,5 lần so với mức lãi suất cao nhất quy định tại Điều 468 BLDS. Khi cho vay Ứ không cắt trước tiền lãi và tiền hồ sơ. Tính từ ngày vay đến ngày 29/3/2023 (15 tháng 13 ngày), tổng số tiền lãi chị P phải trả cho Ứ theo thỏa thuận là 13.890.000đ; tuy nhiên chị P mới trả được 01 tháng lãi là 900.000đ. Theo mức lãi suất tối đa BLDS quy định, số tiền lãi hợp pháp tương ứng là 164.384đ; số tiền lãi quy định tương ứng mức lãi suất cao nhất là 2.536.986đ. Số tiền Ứ nhằm thu lời bất chính là 11.353.014đ. Hiện tại chị P còn nợ 10.000.000đ tiền gốc và 12.990.000đ tiền lãi.
Tổng số tiền lãi của 02 khoản vay là 32.370.000đ, chị P đã trả được 03 tháng tiền lãi là 2.700.000đ. Theo quy định của BLDS, số tiền lãi hợp pháp tương ứng 03 tháng là 493.151đ; số tiền lãi quy định tương ứng mức lãi suất cao nhất là 5.912.328đ. Số tiền Ứ nhằm thu lời bất chính là 26.457.672đ. Hiện tại chị P còn nợ 20.000.000đ tiền gốc và 29.670.000đ tiền lãi.
2. Ngày 23/8/2021, Ứ cho anh Nguyễn Xuân T2 vay 10.000.000đ, không ấn định thời gian trả nợ gốc, với lãi suất 900.000đ/tháng (3.000đ/triệu/ngày). Khi cho anh T2 vay, Ứ cắt trước 900.000đ tiền lãi của tháng đầu tiên rồi đưa cho anh T2 9.100.000đ.
Tính từ ngày vay đến ngày 23/11/2022 (15 tháng), anh T2 đã trả được 15 tháng tiền lãi là 13.500.000đ và 5.000.000đ tiền gốc. Do hoàn cảnh khó khăn ứng không yêu cầu anh T2 phải trả lãi nữa. Theo mức lãi suất tối đa BLDS quy định số tiền lãi hợp pháp cao nhất là 2.465.753đ; số tiền Ứ nhằm thu lời bất chính là 11.034.247đ. Hiện tại anh T2 còn nợ 5.000.000đ tiền gốc, không nợ lãi.
3. Lê Khắc Ứ cho anh Viên Đình L vay tiền 03 lần, cụ thể:
- Ngày 12/02/2017, anh Viên Đình L vay 30.000.000đ. Không ấn định thời gian trả nợ gốc, với lãi suất 3.000đ/triệu/ngày. số tiền lãi hàng tháng anh L phải trả là 2.700.000đ. Khi cho vay Ứ không cắt trước tiền lãi và tiền hồ sơ. Tính từ ngày vay đến ngày 25/10/2022 (68 tháng 13 ngày), anh L phải trả lãi cho Ứ theo thỏa thuận là 184.770.000đ, anh L mới trả được 53 tháng với tổng số tiền là 143.100.000đ. Do hoàn cảnh khó khăn, Ứ không yêu cầu anh L phải trả lãi nữa. Theo mức lãi suất tối đa Bộ luật dân sự quy định, số tiền lãi hợp pháp ứng được hưởng là 26.136.986đ; số tiền quy định tương ứng với mức lãi suất cao nhất ứng được hưởng là 33.747.945đ. số tiền Ứ nhằm thu lời bất chính là 151.022.055đ. Hiện tại anh L còn nợ 30.000.000đ tiền gốc và 41.670.000đ tiền lãi.
- Ngày 14/02/2018, anh L vay 30.000.000đ. Không ấn định thời gian trả nợ gốc, với lãi suất 3.000đ/triệu/ngày. số tiền lãi hàng tháng anh L phải trả là 2.700.000đ. Khi cho vay Ứ không cắt trước tiền lãi và tiền hồ sơ. Tính từ ngày vay đến ngày 25/10/2022 (56 tháng 11 ngày), anh L phải trả lãi cho Ứ theo thỏa thuận là 152.190.000đ, anh L mới trả được 41 tháng là 110.700.000đ. Do hoàn cảnh khó khăn, Ứ không yêu cầu anh L phải trả lãi nữa. Theo mức lãi suất tối đa BLDS quy định, số tiền lãi hợp pháp ứng được hưởng là 20.219.178đ; số tiền lãi quy định tương ứng với mức lãi suất cao nhất ứng được hưởng là 27.797.260đ. Số tiền Ứ nhằm thu lời bất chính là 124.392.740đ. Hiện tại anh L còn nợ 30.000.000đ tiền gốc và 41.490.000đ tiền lãi.
- Ngày 18/02/2022, anh L vay 20.000.000đ. Không ấn định thời gian trả nợ gốc, với lãi suất 3.000đ/triệu/ngày. Số tiền lãi hàng tháng anh L phải trả là 1.800.000đ. Khi cho anh L vay, Ứ không cắt trước tiền lãi và tiền hồ sơ. Tính từ ngày vay đến ngày 25/10/2022 (08 tháng 07 ngày), anh L phải trả lãi cho Ứ theo thỏa thuận là 14.820.000đ; tuy nhiên anh L chưa trả được tháng lãi nào. Do Hoàn cảnh khó khăn, Ứ không yêu cầu anh L phải trả lãi nữa. Theo mức lãi suất tối đa BLDS quy định, số tiền lãi hợp pháp ứng được hưởng là 2.706.849đ; số tiền Ứng nhằm thu lời bất chính 12.113.151đ. Hiện tại anh L còn nợ 20.000.000đ tiền gốc và 14.820.000đ tiền lãi.
Tính đến ngày 25/10/2022 cộng 03 khoản vay, anh L nợ Ứng 80.000.000đ tiền gốc và 97.980.000đ tiền lãi. Do anh L gặp khó khăn nên Ứ đã cộng tiền gốc, tiền lãi của cả 03 khoản vay và thu thêm 2.020.000đ tiền phí thu nợ. Tổng cộng anh L còn nợ Ứ là 180.000.000đ. Hai bên thoả thuận số tiền này sẽ không tính lãi nữa mà anh L sẽ trả cho Ứ trong vòng 36 tháng, mỗi tháng trả 5.000.000đ. Đến nay anh L vẫn chưa trả cho Ứ.
Tổng cộng Ứ cho anh L vay 03 lần với tổng số tiền gốc là 80.000.000đ, tổng số tiền lãi theo thoả thuận tính đến ngày 25/10/2022 là 351.780.000đ, anh L đã trả được 94 tháng với tổng số tiền lãi là 253.800.000đ, số tiền lãi chưa trả là 97.980.000đ, số tiền lãi quy định tương ứng với 94 tháng ứng được hưởng là 46.356.164đ; số tiền lãi quy định tương ứng mức lãi suất cao nhất ứng được hưởng là 64.252.054đ và 2.020.000đ tiền phí thu nợ. Tổng số tiền Ứ nhằm thu lời bất chính là 287.527.946đ. Hiện tại anh L còn nợ 180.000.000đ (trong đó 80.000.000đ tiền gốc, 97.980.000đ tiền lãi và 2.020.000đ tiền phí thu nợ).
4. Lê Khắc Ứ cho ông Viên Đình H1 vay tiền 03 lần, cụ thể:
- Ngày 25/01/2021, ông H1 vay 10.000.000đ, không ấn định thời gian trả nợ gốc, với lãi suất 3.000đ/triệu/ngày, số tiền lãi hàng tháng ông H1 phải trả là 900.000đ. Khi cho vay Ứ không cắt trước tiền lãi và tiền hồ sơ. Tính từ ngày vay đến ngày 29/3/2023 (26 tháng 4 ngày), tổng số tiền lãi ông H1 phải trả theo thỏa thuận là 23.520.000đ. Tuy nhiên, ông H1 mới trả được 15 tháng tiền lãi là 13.500.000đ, số tiền lãi tương ứng là 2.465.753đ; số tiền lãi quy định tương ứng mức lãi suất cao nhất là 4.295.890đ; số tiền lãi nhằm thu lời bất chính là 19.224.110đ. Hiện ông H1 còn nợ 10.000.000đ tiền gốc và 10.020.000đ tiền lãi.
- Ngày 28/3/2021, ông H1 vay 10.000.000đ. Không ấn định thời gian trả tiền gốc, với lãi suất 3.000đ/triệu/ngày. Số tiền lãi hàng tháng ông H1 phải trả là 900.000đ. Khi cho vay, Ứ không cắt trước tiền lãi và tiền hồ sơ. Tính từ ngày vay đến ngày 29/3/2023 (24 tháng 01 ngày). Tổng số tiền lãi ông H1 phải trả lãi theo thỏa thuận là 21.630.000đ. Tuy nhiên, ông H1 mới trả được 13 tháng tiền lãi là 11.700.000đ, số tiền lãi hợp pháp ứng được hưởng là 2.136.986đ; số tiền lãi quy định tương ứng mức lãi suất cao nhất là 3.950.685đ; số tiền lãi ứng nhằm thu lời bất chính là 17.679.315đ. Hiện tại ông H1 còn nợ 10.000.000đ tiền gốc và 9.930.000đ tiền lãi.
- Ngày 23/11/2021, ông H1 vay 20.000.000đ tiền gốc. Không ấn định thời gian trả nợ gốc, với lãi suất 3000đ/triệu/ngày. Số tiền lãi hàng tháng ông H1 phải trả là 1.800.000đ. Khi cho vay Ứ không cắt trước tiền lãi và tiền hồ sơ. Tính từ ngày vay đến ngày 29/3/2023 (16 tháng 06 ngày). Tổng số tiền lãi ông H1 phải trả theo thỏa thuận là 29.160.000đ. Ông H1 mới trả được 05 tháng lãi là 9.000.000đ, số tiền lãi hợp pháp ứng được hưởng là 1.643.836đ; số tiền lãi quy định tương ứng mức lãi suất cao nhất là 5.326.027đ; số tiền lãi ứng nhằm thu lời bất chính là 23.833.973đ. Hiện tại ông H1 còn nợ 40.000.000đ tiền gốc và 20.160.000đ tiền lãi.
Tổng cộng Ứ cho ông H1 vay 03 lần với tổng số tiền là 40.000.000đ. Tổng số tiền lãi theo thoả thuận tính đến ngày 29/3/2023 là 74.310.000đ, ông H1 đã trả được 33 tháng lãi là 34.200.000đ. Tổng số tiền lãi hợp pháp ứng được hưởng là 6.246.575đ; tổng số tiền lãi quy định tương ứng mức lãi suất cao nhất ứng được hưởng là 13.572.602đ. Tổng số tiền Ứ nhằm thu lời bất chính là 60.737.398đ. Hiện ông H1 còn nợ 40.000.000đ tiền gốc và 40.310.000đ tiền lãi.
Như vậy Lê Khắc Ứ đã cho 04 người vay tiền, với tổng số tiền gốc là 150.000.000đ, mức lãi suất cho vay 109,5%/năm, gấp 5,5 lần so với mức lãi suất cao nhất theo quy định tại Điều 468 BLDS. Tổng số tiền lãi người vay phải trả cho Ứ là 471.960.000đ, tiền thu trái pháp luật là 2.020.000đ. Tổng số tiền lãi hợp pháp trong các khoản vay ứng đã thu là 86.202.740đ. Tổng số tiền Ứ thu lời bất chính là 385.757.260đ. Trong đó có 02 lần vay với số tiền thu lời bất chính trên 30.0000.000đ/lần.
* Biện pháp tư pháp:
+ Đối với số tiền gốc 150.000.000đ ứng cho 4 người vay. Đây là công cụ phạm tội cần truy thu nộp ngân sách Nhà nước. Trong đó truy thu của Ứ 5.000.000đ (số tiền người vay đã trả). Truy thu 145.000.000đ của những người vay chưa trả cho Ứ nộp vào Ngân sách Nhà nước gồm: Chị Trần Thị P 20.000.000đ; Anh Nguyễn Xuân T2 5.000.000đ; Anh Viên Đình L 80.000.000đ và ông Viên Đình H1 40.000.000đ.
+ Đối với số tiền lãi hợp pháp theo quy định của BLDS ứng đã thu là 86.202.740đ là tiền lãi ứng được hưởng tương ứng với mức lãi suất 20%/năm theo quy định tại Điều 468 BLDS; tuy không bị tính xác định trách nhiệm hình sự nhưng là khoản tiền phát sinh từ hành vi phạm tội, cần truy thu nộp Ngân sách Nhà nước.
+ Đối với số tiền lãi vượt quá quy định của pháp luật Ứ đã thu là 248.638.357đ gồm: Chị P 2.206.849đ, anh T2 11.034.247đ, anh L 207.443.836đ và ông H1 27.953.425đ. Đây là khoản tiền thu lời bất chính buộc Ứ phải có nghĩa vụ trả lại cho chị P, anh T2, anh L và ông H1.
- Về vật chứng vụ án: 01 (Một) quyển sổ có bìa màu đỏ có 60 tờ tính cả bìa, trong đó tờ đầu tiên ghi danh sách 04 người vay tiền, những tờ còn lại đều là tờ giấy trắng; 01 (Một) giấy vay tiền viết tay ngày 13/7/2021 của Trần Thị P; 01 (Một) Giấy nợ tiền viết tay ngày 25/10/2022 của Viên Đình L. Những vật chứng này là tài liệu liên quan đến hành vi phạm tội của Lê Khắc Ứ nên được lưu trữ tại hồ sơ vụ án.
Quá trình điều tra, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác của vụ án.
Bản án sơ thẩm số 55/2023/HS-ST ngày 22/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh H đã tuyên Lê Khắc Ứ phạm tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”. Áp dụng khoản 2, khoản 3 Điều 201; Điểm s Khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Lê Khắc Ứ 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 29/3/2023. Phạt bổ sung bị cáo 50.000.000đ. Truy thu của Lê Khắc Ứ 71.202.740đ nộp Ngân sách Nhà nước. Truy thu 145.000.000đ tiền gốc của những người vay chưa trả cho Ứ nộp Ngân sách Nhà nước gồm: Chị Trần Thị P 20.000.000đ, anh Nguyễn Xuân T2 5.000.000đ, anh Viên Đình L 80.000.000đ và ông Viên Đình H1 40.000.000đ. Buộc Lê Khắc Ứ phải trả lại cho: Chị Trần Thị P 2.206.849đ, anh Nguyễn Xuân T2 11.034.247đ, anh Viên Đình L 207.443.836đ và ông Viên Đình H1 27.953.425đ. Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, lãi chận trả, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Trong hạn luật định, Lê Khắc Ứ có đơn kháng cáo với nội dung đề nghị cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo vẫn giữ nguyên kháng cáo và thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung của Bản án sơ thẩm đã tuyên.
Cũng tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh H sau khi phân tích tính chất vụ án, nhân thân, hành vi phạm tội của bị cáo cũng như tình tiết mới được bổ sung tại phiên tòa đã đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) chấp nhận kháng cáo, xử phạt bị cáo mức án bằng thời gian tạm giữ, tạm giảm và trả tự do cho bị cáo tại phiên toà.
Lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức được lỗi lầm, hứa không vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:
[1] Xét về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo trong thời hạn kháng cáo theo quy định tại Điều 333 BLTTHS, nên được coi là hợp pháp. Do vậy, HĐXX chấp nhận đơn của bị cáo để xem xét nội dung kháng cáo theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thành khẩn khai báo và thừa nhận hành vi phạm tội cụ thể:
Từ đầu năm 2017 đến tháng 03/2023, Lê Khắc Ứ đã sử dụng tiền cá nhân của mình cho 4 người trên địa bàn xã Q, huyện Q, tỉnh H vay với tổng số tiền là 150.000.000đ, lãi suất 3.000đ/triệu/ngày, tương đương mức lãi suất cao nhất 109,5%/năm, gấp 5,5 lần so với mức lãi suất cao nhất được quy định tại Điều 468 BLDS. Tổng số tiền Ứ nhằm thu lời bất chính là 385.757.260đ. Trong đó có 02 lần ứng cho vay với mức lãi suất cao nhất nhằm thu lời bất chính từ 30.000.000đ/lần.
[2.1] Lời thừa nhận về hành vi phạm tội của bị cáo tại cấp phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và những người làm chứng tại cấp sơ thẩm và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được kiểm tra tại phiên tòa nên hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” theo quy định tại khoản 2 Điều 201 Bộ luật Hình sự (BLHS). Cấp sơ thẩm đã xác định tội danh và khung hình phạt cho bị cáo là có cơ sở pháp luật.
[2.2] Hành vi phạm tội của bị cáo có tính chất ít nghiêm trọng. Tuy nhiên hành vi của bị cáo diễn ra trong thời gian dài, tại thời điểm loại tội phạm và vi phạm pháp luật liên quan đến tín dụng đen có chiều hướng tăng đột biến, đã xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ. “Tín dụng đen” hoành hành khắp nơi khiến nhiều gia đình “tán gia bại sản”, không có khả năng trả nợ. Có những trường hợp phải bỏ nhà xa xứ và luôn sống trong tình cảnh lo sợ vì bị siết nợ. Thực trạng trên gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Do vậy, cấp sơ thẩm đã áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, nhằm mục đích trừng trị, cải tạo, giáo dục đối với bị cáo là có cơ sở.
[3] Về nguyên nhân, điều kiện phạm tội, thấy rằng:
Nguyên nhân, động cơ gây án xuất phát từ nhu cầu vốn của người dân rất lớn, trong khi các tổ chức tín dụng chưa đáp ứng được nhu cầu, dẫn đến tín dụng đen có đất phát triển, bởi lợi nhuận từ việc kinh doanh “tín dụng đen’’ rất lớn, là miếng mồi “béo bở” để các đối tượng làm ăn phi pháp, thu lợi nhuận bất chính.
[4] Xét kháng cáo xỉn giảm hình phạt của bị cáo:
[4.1] Nhận thấy, khi lượng hình cấp sơ thẩm có xem xét, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ như:
Bị cáo thành khẩn khai báo, sau khi phạm tội đã đến Công an huyện Q, tỉnh H đầu thú. Quá trình giải quyết vụ án đã tác động đến gia đình tự nguyện nộp một phần tiền lãi hợp pháp tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Q nên đã được áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
[4.2] Tại cấp phúc thẩm gia đình bị cáo có đơn xin xác nhận đề nghị Tòa án giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Thấy rằng bản thân bị cáo có trình độ học vấn thấp, hiểu biết pháp luật rất hạn chế, có nhiều bệnh tật, sức khoẻ yếu; phạm tội chỉ vì hám lời. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo đã tác động đến gia đình tự nguyện nộp toàn bộ án phí sơ thẩm 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) và nộp một phần tiền phạt bổ sung là 5.000.000đ (năm triệu đồng) theo Biên lai thu tiền số AA/2021/ 0005099 ngày 06/11/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Q, tỉnh H khi Bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Điều đó thể hiện sự ăn năn, hối hận về hành vi của mình. Hơn nữa hiện gia đình bị cáo cũng rất hoàn cảnh, bố mất sớm, mẹ già yếu, vợ đầu đã ly hôn, vợ hai không có công việc và thu nhập ổn định, bản thân là lao động chính đang phải nuôi vợ và ba người con còn nhỏ. Được chính quyền địa phương xác nhận. Do đó cần áp dụng thêm các tình tiết giảm nhẹ mới quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS đối với bị cáo.
[4.3] HĐXX nhận thấy tại cấp phúc thẩm, bị cáo có thêm nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Tuy hành vi của bị cáo là ít nghiêm trọng, song bị cáo là người có nhân thân xấu nên không đủ điều kiện để được tại ngoại, cải tạo tại địa phương. HĐXX cần chấp nhận kháng cáo, xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo thấy được tính nhân đạo của pháp luật và sự khoan hồng của Nhà nước để tu dưỡng bản thân, phấn đấu thành người công dân có ích cho xã hội. Do vậy, kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo là có cơ sở chấp nhận. Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là áp dụng Điều 357 của BLTTHS, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm là có căn cứ pháp luật.
[5] Về hình phạt bổ sung: Bản án sơ thẩm tuyên phạt bổ sung bị cáo 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng). Trước khi xét xử phúc thẩm đã tự nguyện nộp 5.000.000đ (năm triệu đồng). Bị cáo còn phải nộp tiếp số tiền phạt bổ sung là 45.000.000đ (bốn lăm triệu đồng).
[6] Án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[7] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị HĐXX không xem xét.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lê Khắc Ứ. Sửa Bản án Hình sự sơ thẩm số 55/2023/HS-ST ngày 22/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh H về hình phạt.
Tuyên bố: Bị cáo Lê Khắc Ứ phạm tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”.
Áp dụng: Khoản 2, Khoản 3 Điều 201; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Lê Khắc Ứ 07 (bảy) tháng 08 (tám) ngày tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (29/3/2023).
Áp dụng khoản 5 Điều 328 Bộ luật Tố tụng Hình sự, trả tự do cho bị cáo Lê Khắc Ứ ngay tại phiên tòa nếu bị cáo không bị bắt tạm giam về một tội phạm nào khác.
Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo đã nộp đủ.
Về hình phạt bổ sung: Bị cáo còn phải nộp tiếp 45.000.000đ (bốn lăm triệu đồng) tiền phạt bổ sung theo Quyết định của Bản án sơ thẩm đã tuyên.
Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Lê Khắc Ứ không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự số 195/2023/HS-PT
Số hiệu: | 195/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về