Bản án về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự số 18/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 18/2024/HS-ST NGÀY 19/01/2024 VỀ TỘI CHO VAY LÃI NẶNG TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ

Ngày 19 tháng 01 năm 2024 tại Hội Trường xét xử Toà án nhân dân TP. H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 253/2023/HSST ngày 17/11/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2024/QĐXXST-HS ngày 04/01/2024 của TAND TP. H đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thị Như Q, sinh ngày 14/8/1985 tại tỉnh Q.

Nơi cư trú: tổ B, khu D. phường H. TP tỉnh Q; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn H và bà: Trần Thị C; có chồng: Nguyền Văn C1 và có 05 con, lớn sinh năm 2006. nhỏ sinh năm 2022; tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1995; nơi cư trú: tổ B, khu Đ, phường Đ, TP ., tỉnh Q, vắng mặt tại phiên tòa (có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Anh Nguyễn Văn C1, sinh năm 1976; nơi cư trú: tổ B. khu D. phường H, TP, tỉnh Q, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chị Nguyễn Thị T và Nguyễn Thị Như Q có mối quan hệ quen biết ngoài xã hội. Ngày 20/3/2023, chị T nhắn tin cho Q qua phần mềm Messenger để hỏi vay số tiền 30.000.000 đồng. Q đồng ý và thỏa thuận với chị T tiền lãi sẽ là 50.000 đồng/1.000.000 đồng/1 ngày, (tương đương 1.825%/năm) và sẽ cắt lãi trước trong vòng 03 ngày. Chị T đồng ý, nhưng 02 bên không viết giấy vay tiền và chị T không để lại tài sản hay giấy tờ tùy thân thế chấp. Cả hai chỉ liên lạc và nói chuyện với nhau qua phần mềm Messenger. Sau đó, chị T có cung cấp số tài khoản 6602111995 ngân hàng S, chủ tài khoản mang tên Nguyễn Thị T, để Q chuyển tiền qua tài khoản cho chị T. Sau đó, chị T tiếp tục nhiều lần vay tiền của Q với lãi suất là 50.000 đồng/1.000.000 đồng/1 ngày, (tương đương 1.825%/năm) vượt mức lãi suất 91,25 lần. Đến ngày 19/5/2023 Q đã cho chị T vay tổng cộng 08 lần và 07 lần chốt nợ, thu lợi bất chính 140.052.877 đồng, các lần cho vay tiền, trả tiền lãi đều chuyển qua tài khoản ngân hàng S.

Cụ thể các lần:

Lần 1: Ngày 20/3/2023, chị T vay của Q 30.000.000 đồng, chị T trả lãi trong 17 ngày tương đương với số tiền 25.500.000 đồng; trong đó số tiền lãi được thu theo quy định 279.452 đồng; số tiền thu lợi bất chính 25.220.548 đồng;

Lần 2: Ngày 21/3/2023, chị T vay của Q 5.000.000 đồng, chị T trả lãi trong 14 ngày tương đương với số tiền 3.500.000 đồng, trong đó số tiền lãi được thu theo quy định 38.356 đồng; số tiền thu lợi bất chính 3.461.644 đồng;

Lần 3: Ngày 24/3/2023, chị T vay của Q 10.000.000 đồng, chị T trả lãi trong 13 ngày tương đương với số tiền 6.500.000 đồng, trong đó số tiền lãi được thu theo quy định 71.233 đồng; số tiền thu lợi bất chính 6.428.767 đồng;

Lần 4: Ngày 31/3/2023, chị T vay của Q 5.000.000 đồng, chị T trả lãi trong 2 ngày tương đương với số tiền 500.000 đồng, trong đó số tiền lãi được thu theo quy định 5.479 đồng; số tiền thu lợi bất chính 494.521 đồng;

Lần 5: Ngày 5/4/2023, chị T chốt số nợ với chị Q là 44.000.000 đồng, chị T trả lãi trong 18 ngày tương đương với số tiền 39.600.000 đồng, trong đó số tiền lãi được thu theo quy định 433.973 đồng; số tiền thu lợi bất chính 39.166.027 đồng;

Lần 6: Ngày 7/4/2023, chị T vay của Q 10.000.000 đồng, chị T trả lãi trong 2 ngày tương đương với số tiền 1.000.000 đồng, trong đó số tiền lãi được thu theo quy định 10.959 đồng; số tiền thu lợi bất chính 989.041 đồng;

Lần 7: Ngày 12/4/2023, chị T vay của Q 10.000.000 đng, chị T trả lãi trong 2 ngày tương đương với số tiền 1.000.000 đồng, trong đó số tiền lãi được thu theo quy định 10.959 đồng; số tiền thu lợi bất chính 989.041 đồng;

Lần 8: Ngày 19/4/2023, chị T vay của Q 10.000.000 đng, chị T trả lãi trong 3 ngày tương đương với số tiền 1.500.000 đồng, trong đó số tiền lài được thu theo quy định 16.438 đồng; số tiền thu lợi bất chính 1.483.562 đồng;

Lần 9: Ngày 22/4/2023, chị T và Q chốt s nợ là 30.200.000 đồng, chị T trả lãi trong 4 ngày tương đương với số tiền 6.040.000 đồng, trong đó số tiền lãi được thu theo quy định 66.192 đồng; số tiền thu lợi bất chính 5.973.808 đồng;

Lần 10: Ngày 25/4/2023, chị T và Q tiếp tục chốt nợ là 42.600.000 đồng, chị T trả lãi trong 9 ngày tương đương với số tiền 19.170.000 đồng, trong đó số tiền lãi được thu theo quy định 210.082 đồng; số tiền thu lợi bất chính 18.959.918 đồng;

Lần 11: Ngày 3/5/2023, chị T vay của Q 15.000.000 đồng. Q đồng ý chuyển cho T 8.000.000 đồng (đã cắt lãi trước 03 ngày số tiền là 2.400.000 đồng và trừ số tiền 4.600.000 đồng là tiền lãi của các khoản vay trước đó). Sau đó cùng thời điểm chị T và Q chốt là chị T còn nợ 49.000.000 đồng, chị T trả lãi trong 3 ngày tương đương với số tiền 7.350.000 đồng, trong đó số tiền lâi được thu theo quy định 80.548 đồng; số tiền thu lợi bất chính 7.269.452 đồng;

Lần 12: Ngày 05/5/2023, chị T và Q chốt chị T còn nợ Q 48.000.000 đồng, chị T trả lãi trong 8 ngày tương đương với số tiền 19.200.000 đồng, trong đó số tiền lãi được thu theo quy định 210.411 đồng; số tiền thu lợi bất chính 18.989.589 đồng;

Lần 13: Ngày 12/5/2023, chị T và Q chốt T còn nợ 20.000.000 đồng, chị T trả lãi trong 8 ngày tương đương với số tiền 8.000.000 đồng, trong đó số tiền lãi được thu theo quy định 87.671 đồng; số tiền thu lợi bất chính 7.912.329 đồng;

Lần 14: Ngày 12/5/2023, chị T và Q chốt T còn nợ với 35.900.000 đồng và thoả thuận 10.000 đồng/1 triệu/1 ngày tương đương lãi xuất 365%/1 năm, chị T trả lãi trong 8 ngày tương đương với số tiền 2.872.000 đồng, trong đó số tiền lãi được thu theo quy định 157.370 đồng; số tiền thu lợi bất chính 2.714.630 đồng;

Như vậy, tng số tiền Q thu lợi bất chính trong các khoản cho vay trên là 140.052.877 đng.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà, Nguyễn Thị Như Q khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị T có lời khai phù hợp với lời khai của bị cáo về nội dung vụ án, nay chị đã được bị cáo trả lại số tiền là 105.000.000 đồng, nên chị không yêu cầu bị cáo phải trả thêm cho chị bất kỳ khoản tiền nào nữa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn C1 khai: anh là chồng bị cáo Q, anh đã thay mặt bị cáo Q nộp tổng số tiền là 175.700.000 đồng vào Chi cục thi hành án dân sự thành phố H để khắc phục hậu quả cho bị cáo Q, số tiền anh nộp là tài sản chung của vợ chồng anh, anh không yêu cầu bị cáo Q phải trả lại cho anh số tiền đã nộp để khắc phục hậu quả.

Tại Cáo trạng số 252/CT-VKSHL ngày 16/11/2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố Nguyễn Thị Như Q về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” theo khoản 2 Điều 201 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: khoản 2 Điều 201; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 35 Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Thị Như Q từ 200.000.000 đồng đến 220.000.000 đồng nộp ngân sách Nhà nước.

Về phần dân sự: chị T và bị cáo đã giải quyết xong phần tiền lãi, nay chị T không yêu cầu nên không đề cập giải quyết.

Về biện pháp tư pháp: buộc bị cáo Q phải nộp lại tổng số tiền 96.679.123 đồng để sung ngân sách Nhà nước (trong đó bao gồm: 95.000.000 đồng là tiền gốc cho vay và 1.679.123 đồng là tiền lãi theo quy định).

Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H và bản luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố H, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời trình bày của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và phù hợp với tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: trong khoảng thời gian từ ngày 20/3/2023 đến ngày 19/5/2023, tại tổ B. khu Đ. phường Đ. thành phố H. Nguyễn Thị Như Q đã 08 lần dùng tổng số tiền là 95.000.000 đồng cho chị Nguyễn Thị T vay tiền với lãi mức suất từ 10.000 đồng/1 triệu/1 ngày (tương đương lãi xuất 365%/1 năm) đến 50.000 đồng/1.000.000đ/01 ngày (tương đương 1825%/01 năm), vượt đến 91,25 lần mức lãi suất cao nhất quy định Bộ luật dân sự, số tiền thu lợi bất chính với tng là 140.052.877 đồng (một trăm bốn mươi triệu, không trăm năm mươi hai nghìn, tám trăm bảy mươi bảy đồng).

Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Thị Như Q đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” quy định tại khoản 2 Điều 201 Bộ luật hình sự như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự, xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước về tín dụng mà cụ thể là trật tự trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, đồng thời xâm phạm đến lợi ích của công dân, gây mất trật tự trị an xã hội và làm nảy sinh nhiều loại tội phạm khác, vi vậy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xử lý nghiêm.

[3] Xét về nhân thân: bị cáo có nhân thân tốt; chưa có tiền án tiền sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; đã tự nguyện trả lại (khắc phục) hơn ½ số tiền thu lãi cho người vay; tự nguyện nộp số tiền dùng để cho vay (phương tiện phạm tội) và tiền do phạm tội mà có tại cơ quan thi hành án dân sự để đảm bảo thi hành án, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có.

[4] Về hình phạt: khi lượng hình, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo để thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

Xét thấy hành vi của bị cáo đã xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, đã tự nguyện nộp một phần tiền để đảm bảo thi hành án, Bộ luật Hình sự quy định loại tội phạm này có hình phạt chính là hình phạt tiền, mặt khác Nghị quyết 01/2021/NQ-HDTP ngày 20/12/2021 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao quy định về Nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là: Xem xét áp dụng nghiêm khắc hình phạt tiền là hình phạt chính đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy cần xử phạt bị cáo hình phạt chính là hình phạt tiền để răn đe, giáo dục bị cáo.

Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, cần áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự khi quyết quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: bị cáo Q thu tiền lãi trái pháp luật với tổng số tiền là 140.052.877 đồng. Xét thấy đây là khoản tiền mà bị cáo đã thu lợi bất chính của chị T nên về nguyên tắc cần buộc bị cáo Q phải trả lại số tiền này cho chị T, tuy nhiên quá trình điều tra bị cáo đã trả cho chị T số tiền là 105.000.000 đồng, nay chị T không yêu cầu bị cáo phải trả thêm bất cứ khoản tiền gì, nên không buộc bị cáo phải nộp lại số tiền thu lợi bất chính còn lại để sung ngân sách Nhà nước.

[6] Về xử lý vật chứng: quá trình điều tra không thu giữ vật chứng nên không đề cập giải quyết.

[7] Về biện pháp tư pháp:

- Bị cáo Q dùng tổng số tiền là 95.000.000 đồng để cho chị Q vay thu lãi theo quy định là 1.679.123 đồng, xét thấy theo quy định của pháp luật thì số tiền bị cáo dùng để cho vay được xác định là phương tiện phạm tội và tiền lãi theo quy định được xác định là tiền do phạm tội mà có, nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước hai khoản tiền trên.

Như vậy, tổng số tiền buộc bị cáo Q phải nộp lại sung ngân sách Nhà nước là: 95.000.000 đồng + 1.679.123 đồng = 96.679.123 đồng.

- Đối với số tiền 175.700.000 đồng mà chồng bị cáo Q tự nguyện nộp thay cho bị cáo tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố H cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[8] Luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh, điều khoản truy tố, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp với nội dung của vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa nên cơ bản được Hội đồng xét xử chấp nhận. Tuy nhiên mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc, vì vậy Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc quyết định mức hình phạt đối với bị cáo cho phù hợp với quy định của pháp luật.

[9] Nội dung khác: quá trình điều tra, Q còn khai ngoài cho chị T vay, Q còn cho người phụ nữ tên N vay 20.000.000 đồng với lãi suất 50.000 đồng/1.000.000 đồng/1 ngày, (tương đương 1.825%/năm), nhưng Q không biết rõ nhân thân lai lịch của N, tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ để xử lý về hành vi trên, nên không đề cập giải quyết.

[10] Về án phí và quyền kháng cáo: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ: khoản 2 Điều 201; Điều 35; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự.

- Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Thị Như Q phạm tội: “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”.

- Xử phạt: bị cáo Nguyễn Thị Như Q 150.000.000 đồng (một trăm năm mươi triệu đồng) nộp ngân sách Nhà nước.

- Biện pháp tư pháp:

+ Áp dụng điểm d khoản 1 Điều 125 Bộ luật tố tụng hình sự. Hủy bỏ Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 426/LCCT-TA ngày 17/11/2023 và Quyết định tạm hoãn xuất cảnh số 443/2023/QĐTHXC ngày 17/11/2023 của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Q đối với bị cáo Nguyễn Thị Như Q.

+ Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Buộc bị cáo Nguyễn Thị Như Q phải nộp lại số tiền 96.679.123 đồng (chín mươi sáu triệu, sáu trăm bảy mươi chín nghìn, một trăm hai mươi ba đồng) sung ngân sách Nhà nước.

- Tạm giữ số tiền 175.700.000 đồng (một trăm bây mươi lăm triệu, bảy trăm nghìn đồng) mà chồng bị cáo Q tự nguyện nộp thay cho bị cáo Q tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố H để đảm bảo thi hành án (trong đó có: số tiền 75.700.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 0000157 ngày 12/12/2023 và số tiền 100.000.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 0000204 ngày 05/01/2024, của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H).

- Về án phí: áp dụng: khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Q phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

39
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự số 18/2024/HS-ST

Số hiệu:18/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về