TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH HÀ, TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 16/2023/HS-ST NGÀY 26/04/2023 VỀ TỘI CHO VAY LÃI NẶNG TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ
Ngày 26 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở TAND huyện H, tỉnh D xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 16/2023/TLST-HS ngày 28/02/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2023/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 3 năm 2023 và quyết định hoãn phiên tòa số 05/2023/HSST-QĐ ngày 29/3/2023; thông báo thay đổi thời gian mở lại phiên tòa số 10/TB-TA ngày 14 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo:
Phan Công Q, sinh năm 1982; nơi sinh và cư trú: thôn C1, xã L, huyện H, tỉnh D; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Công T và bà Tăng Thị T1; có vợ là Bùi Thị H và có 02 con; tiền sự: Chưa; tiền án: Bản án số 20 ngày 26/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện H xử phạt 12 tháng tù về tội Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự, chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/7/2021; Nhân thân: Quyết định xử phạt hành chính số 138 ngày 23/10/2020 của Công an huyện H xử phạt số tiền 2.500.000 đồng về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác, bị cáo chưa nộp tiền phạt; Bản án số 206 ngày 29/10/2010 của Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Đã chấp hành xong hình phạt tù, nộp án phí ngày 04/3/2011 (đã xóa án tích); tạm giữ, tạm giam: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Anh Tiêu Văn T, sinh năm 1988; địa chỉ: Thôn N, xã C, huyện H, tỉnh D. (Vắng mặt)
- Anh Đặng Văn C, sinh năm 1990; địa chỉ: Thôn N, xã C, huyện H, tỉnh D. (Vắng mặt)
- Chị Nguyễn Thị Q1, sinh năm 1994; địa chỉ: Thôn N, xã C, huyện H, tỉnh D. (Vắng mặt)
- Anh Nguyễn Phúc T3, sinh năm 1973; địa chỉ: Thôn C1, xã L, huyện H, tỉnh D. (Vắng mặt)
- Anh Tiêu Hà T4, sinh năm 2000, địa chỉ: Thôn N, xã C, huyện H, tỉnh D.(Vắng mặt)
- Anh Phan Công H1, sinh năm 1996, địa chỉ: Thôn C1, xã L, huyện H, tỉnh D. (Vắng mặt)
- Anh Nguyễn Phúc T5, sinh năm 1984, địa chỉ: Thôn C3, xã L, huyện H, tỉnh D.(Vắng mặt)
* Người làm chứng:
- Anh Lê Công H3; Lê Văn H4; chị Bùi Thị P. (đều vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 25/5/2018, Phan Công Q thuê kiốt của chị Bùi Thị P; địa chỉ tại thôn C, xã V, huyện H, tỉnh D để làm địa điểm thực hiện hoạt động cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự. Q in sẵn các giấy vay tiền để người có nhu cầu vay tiền điền thông tin và số tiền muốn vay nhưng không kèm lãi suất. Hình thức cho vay, vay tín chấp và vay trả góp. Vay tín chấp thì mức lãi suất cao nhất đến 91.25%/năm. Vay trả góp (còn gọi là bát họ) tỷ lệ từ 10 ăn 5,71 (nhận 5.710.000 đồng phải trả 10.000.000 đồng) đến 10 ăn 7, 27 (nhận 7.270.000 đồng phải trả 10.000.000 đồng trong kỳ hạn trả dao động từ 119 đến 299 ngày có mức lãi suất cho vay từ 151,93%/năm đến 164,41%/năm). Sau khi cho vay, Q nhập thông tin người vay, lãi suất, ngày vay, ngày kết thúc hợp đồng vào Website “mecash.vn” với tài khoản “tài chính10” mật khẩu “phanquy” bằng điện thoại Iphone 6S để quản lý hoạt động cho vay.
Ngày 10/9/2022 nhận được đơn trình báo của công dân huyện H, tố cáo Phan Công Q có hành vi cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh D đã tiến hành làm việc với Phan Công Q, tại cơ quan điều tra Q thừa nhận hành vi của mình. Ngày 09/10/2022, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh D chuyển thông tin vụ việc đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H để giải quyết theo thẩm quyền.
Quá trình điều tra xác định từ tháng 8/2021 đến ngày 19/9/2022, Phan Công Q cho 07 người vay tiền tương đương 08 hợp đồng vay với lãi suất cho vay từ 151,93% đến 164,41%/năm, tổng số tiền gốc cho vay 90.000.000 đồng, tổng số tiền lãi đã thu 18.675.000 đồng, tổng số tiền thu lợi bất chính là 14.614.726.000 đồng.
Tại Bản cáo trạng số 14/CT-VKSHD-TH ngày 27/02/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh D truy tố bị cáo Phan Công Q về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” theo khoản 1 Điều 201 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Về số tiền nợ gốc trước thời điểm xét xử các anh chị T2, Q1, T3 đã trả nợ xong cho bị cáo tổng số tiền nợ gốc 37.000.000 đồng; số nợ gốc chưa trả gồm anh T4 nợ số tiền 12.000.000 đồng, anh H1 nợ số tiền 925.100 đồng, anh T5 nợ số tiền 3.000.000 đồng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử (viết tắt HĐXX): Áp dụng khoản 1 Điều 201; điểm s, i khoản 1 Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự : Xử phạt bị cáo Phan Công Q từ 21 đến 24 tháng cải tạo không giam giữ. Khấu trừ từ 10 đến 15% thu nhập hàng tháng sung quỹ nhà nước. Giao bị cáo Ủy ban nhân dân xã L nơi bị cáo cư trú để giám sát giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
* Về biện pháp tư pháp:
-Truy thu số tiền gốc của những người vay đã trả cho Phan Công Q để sung quỹ nhà nước.
- Truy thu sung quỹ nhà nước từ những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chưa trả nợ gốc gồm anh T4, anh H1, anh T5 chưa trả nợ gốc.
- Trả lại người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan số tiền lãi mà Q đã thu vượt quá quy định của pháp luật.
- Truy thu của Phan Công Q số tiền lãi thu theo quy định pháp luật để sung quỹ nhà nước.
* Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện H, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với vật chứng đã thu giữ, lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Từ tháng 8/2021 đến ngày 19/9/2022, Phan Công Q cho 07 người vay tiền tương đương 08 hợp đồng vay với lãi suất cho vay từ 151,93% đến 164,41%/năm vượt quá 05 lần trở lên của lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật dân sự, tổng số tiền gốc cho vay 90.000.000 đồng, tổng số tiền lãi đã thu 18.675.000 đồng, tổng số tiền thu lợi bất chính là 14.614.726.000 đồng.
Mặc dù số tiền thu lợi bất chính dưới mức định lượng quy định của điều luật (30.000.000đ - 100.000.000đ) vì bị cáo đã bị kết án về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự chưa được xóa án tích tại bản án số 20 ngày 26/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện H, bản án này là yếu tố định tội nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” theo khoản 1 Điều 201 Bộ luật hình sự.
[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt phù hợp, tương xứng với tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Quyết định xử phạt hành chính số 138 ngày 23/10/2020 của Công an huyện H xử phạt số tiền 2.500.000 đồng về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác, bị cáo chưa nộp tiền phạt, căn cứ Điều 74 Luật xử lý vi phạm hành chính đã hết thời hiệu thi hành, do đó bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nhưng bị cáo có nhân thân xấu. HĐXX cân nhắc đánh giá khi quyết định hình phạt.
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Vì khoản 1 Điều 201 của Bộ luật hình sự không quy định hình phạt tù mà mức cao nhất của khung hình phạt là cải tạo không giam giữ đến 03 năm. Căn cứ tính chất, mức độ của hành vi bị cáo thực hiện, cần phạt tạo không giam giữ và khấu trừ một phần thu nhập đối với bị cáo.
[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo bị áp dụng hình phạt chính là cải tạo không giam giữ và có khấu trừ thu nhập, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 3 Điều 201 của Bộ luật hình sự.
[6] Về biện pháp tư pháp:
- 6.1 Đối với số tiền gốc 90.000.000 đồng mà bị cáo Q sử dụng cho 07 người vay nặng lãi, xét đây là công cụ phạm tội của bị cáo nên cần truy thu nộp vào Ngân sách Nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Q khai đã thu về số tiền gốc 74.074.900 đồng. Cần truy thu từ bị cáo số tiền này.
Đối với số tiền 16.925.060 đồng nợ gốc mà người vay chưa trả cho Q: Tại phiên tòa bị cáo khai anh Thăng còn nợ tiền gốc 12.000.000 đồng; anh Hiếu còn nợ tiền gốc 925.100 đồng; anh Tiếp còn nợ tiền gốc 3.000.000 đồng. Những người có tên nêu trên đã được tống đạt hợp lệ giấy triệu tập đến phiên tòa nhưng đều vắng mặt không có lý do, tại thời điểm xét xử sơ thẩm không giao nộp được các căn cứ chứng minh đã trả xong số tiền nợ gốc cho bị cáo Q, do đó cần truy thu số tiền này từ người vay để sung quỹ nhà nước theo quy định pháp luật.
- 6.2 Đối với khoản tiền lãi 14.614.726 đồng mà bị cáo Q thu của 07 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vượt quá mức lãi suất tối đa quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự, cần buộc bị cáo phải trả lại cho người vay (có danh sách cụ thể tại phần Quyết định của bản án).
- 6.3 Đối với số tiền lãi 4.060.274 đồng không vượt quá mức lãi suất tối đa quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự mà bị cáo Q đã thu của 07 người vay. Đây là số tiền bị cáo có được từ việc phạm tội nên cần truy thu nộp vào ngân sách Nhà nước theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự.
[7] Về xử lý vật chứng: Chiếc điện thoại Iphone 6S bị cáo khai sử dụng để nhập phần mềm cho vay, cơ quan điều tra không thu giữ được nên không giải quyết.
[8] Các vấn đề khác: Đối với 04 người vay tiền gồm anh Phan Nhật T6 vay số tiền 10.000.000 đồng; chị Phạm Thị P1 vay số tiền gốc 76.000.000 đồng; anh Phạm Đăng T7 vay số tiền gốc 5.000.000 đồng; chị Phạm Thị M vay số tiền 1.000.000 đồng. Tổng số tiền vay 92.000.000 đồng, vay theo hình thức tín chấp, lãi suất cho vay 91,25%/năm. Số tiền lãi đã thu 39.955.000 đồng; tiền thu lợi bất chính là 30.796.644 đồng. Xét thấy bị cáo cho vay bằng hình thức tín chấp nhưng không có giấy phép kinh doanh; số tiền lãi chưa vượt quá 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật dân sự. Ngày 09/02/2023 Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện H đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với Phan Công Q là phù hợp pháp luật.
Đối với các hợp đồng vay chưa làm việc được, hoặc đã làm việc được nhưng người có thông tin trong dữ liệu phần mềm quản lý việc cho vay xác định không vay tiền của Q hoặc vắng mặt tại địa phương. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H tiếp tục xác minh, điều tra, xử lý sau.
Đối với Lê Văn H4; Lê Công H5 là người trước đó mua tài khoản “taichinh10” để hoạt động cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự nhưng đã bị bắt và xử lý trước đó. Việc Phan Công Q tự ý sử dụng tài khoản trên để hoạt động cho vay nặng lãi thì các anh H4 và H5 không biết, không được hưởng lợi từ việc cho vay bất hợp pháp của Q. Quá trình điều tra không có căn cứ xác định các anh H4, H5 có góp vốn để hoạt động do đó không có căn cứ xử lý đối với các anh Lê Văn H4 và Lê Công H5.
Chị Bùi Thị P không biết cho bị cáo thuê nhà để sử dụng làm địa điểm thực hiện hoạt động cho vay lãi nặng nên không có căn cứ để xử lý.
[9]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 201; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 36; điểm a, b khoản 1 Điều 46, điểm b khoản 1 Điều 47; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố: Bị cáo Phan Công Q phạm tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”.
2. Xử phạt bị cáo Phan Công Q 24 (Hai mươi tư) tháng cải tạo không giam giữ. Thời gian cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan Thi hành án hình sự Công an huyện H nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Hủy bỏ lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 03a ngày 14 tháng 4 năm 2023. Khấu trừ 20 % thu nhập hàng tháng của bị cáo sung quỹ nhà nước. Giao bị cáo Q cho Ủy ban nhân dân xã L nơi bị cáo cư trú để giám sát giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã trong việc giám sát, giáo dục người đó.
3. Về biện pháp tư pháp:
- Truy thu số tiền 74.074.900đ (Bẩy mươi tư triệu không trăm bẩy tư nghìn chín trăm đồng) của bị cáo Phan Công Q sung quỹ nhà nước.
- Truy thu sung quỹ nhà nước tổng số tiền 15.925.100đ (Mười năm triệu chín trăm hai mươi năm nghìn một trăm đồng) nợ gốc chưa trả từ những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm các anh có tên như sau: anh Tiêu Hà T4 số tiền 12.000.000đ (Mười hai triệu đồng); anh Phan Công H1 số tiền 925.100đ (Chín trăm hai mươi năm nghìn một trăm đồng); anh Nguyễn Phúc T5 số tiền 3.000.000đ (Ba triệu đồng).
- Buộc bị cáo Phan Công Q trả lại tiền thu lợi bất chính (khoản lãi vượt quá mức lãi suất tối đa mà pháp luật quy định) cho 07 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, tổng = 14.614.726đ (Mười bốn triệu sáu trăm mười bốn nghìn bẩy trăm hi mươi sáu đồng) Cụ thể số tiền trả cho từng người như sau:
STT | Họ và tên người được trả | Số tiền được trả |
1 | Tiêu Văn T2 | 4.695.890đ |
2 | Đặng Văn C | 1.466.781đ |
3 | Nguyễn Thị Q1 | 591.096đ |
4 | Tiêu Hà T4 | 2.353.425đ |
5 | Nguyễn Phúc T3 | 2.353.425đ |
6 | Phan Công H1 | 2.565.754đ |
7 | Nguyễn Phúc T5 | 588.356đ |
- Truy thu của Phan Công Q số tiền lãi theo quy định số tiền 4.060.274 đồng (Bốn triệu không trăm sáu mươi nghìn hai trăm bẩy mươi tư đồng) sung quỹ nhà nước.
4. Về án phí: Bị cáo Phan Công Q phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 26/4/2023. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự số 16/2023/HS-ST
Số hiệu: | 16/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Hà - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/04/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về