TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 01/2023/HS-PT NGÀY 05/01/2023 VỀ TỘI CHO VAY LÃI NẶNG TRONG GIAO DỊCH DÂN SỰ
Ngày 05 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh G, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 99/2022/TLPT-HS ngày 04 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo Nguyễn Thị H, do có kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Thị Thu H, Huỳnh Thị Bích Th, Nguyễn Thị Th đối với bản án hình sự sơ thẩm số 150/2022/HS-ST ngày 23 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh G.
Bị cáo bị kháng cáo: Nguyễn Thị H, sinh năm 1973 tại G. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: 23/21/207 Phan Đình Gi, tổ 7, phường H, thành phố P, tỉnh G; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; Tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn H, sinh năm 1940 (đã chết) và bà Lê Thị Th, sinh năm 1947 (đã chết). Có chồng là Phạm Ngọc T, sinh năm 1972 và 02 người con sinh năm 1995 và 2005; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11-10-2021 đến ngày 19-10-2021, sau đó bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay. Bị cáo hiện đang tại ngoại. Có mặt * Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có kháng cáo:
- Chị Trần Thị Thu H, sinh năm 1981. Địa chỉ: tổ 14, phường H, thành phố P, tỉnh G. Có mặt
- Chị Huỳnh Thị Bích Th, sinh năm 1971. Địa chỉ: 366 B Cách mạng tháng 8, thành phố P, tỉnh G. Vắng mặt
- Chị Nguyễn Thị Thuận, sinh năm 1973. Địa chỉ: thôn3, xã An Phú, thành phố P, tỉnh G. Có mặt
* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chị Trần Thị Thu H: Ông Đỗ Trúc L, Luật sư Công ty Luật TNHH MTV V, thuộc Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh. Địa chỉ: 17 Trần Văn N, phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh. Có mặt
* Người làm chứng: Ông Ngô Thanh Q, sinh năm 1979. Địa chỉ: 34A Cù Chính L, thành phố P, tỉnh G. Có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
1.Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Thị H là người cho vay để kiếm lời từ khoảng thời gian năm 2015- 2016 đến nay.
Vào ngày 05-8-2021 (âm lịch là ngày 27-6-2021), Nguyễn Thị H cho chị Trương Thị H vay 280.000.000đồng với mức lãi suất thỏa thuận thời điểm vay 3000 đồng/1.000.000 đồng/01 ngày (tương ứng với lãi suất 109,5%/01 năm); 05 ngày Trương Thị H phải trả tiền lãi một lần số tiền 4.200.000đồng, đây là 01 kỳ trả lãi. Sau khi thỏa thuận xong, H yêu cầu chị Trương Thị H viết và ký vào mẫu Giấy mượn tiền của H trong đó ghi nội dung số tiền vay nêu trên và ngày vay là 27-6-2021; giấy này không thể hiện lãi suất các bên đã thỏa thuận.
Sau khi nhận tiền Trương Thị H đã nhiều lần trả tiền lãi cho H số tiền là 50.400.000đồng, cụ thể:
- Trả 04 kỳ vào tài khoản của H số tiền 16.800.000đồng vào các ngày 09-8- 2021, 14-8-2021, 19-8-2021 và 24-8-2021.
- Thời gian tiếp theo, Trương Thị H nợ H 04 kỳ tiền lãi số tiền 16.800.000đồng nên Trương Thị H Thỏa thuận trả trước cho H 15.000.000đồng.
- Đến ngày 20-9-2021, Trương Thị H chuyển tiền vào tài khoản của H số tiền 6.000.000đồng.
- Đến ngày 03-10-2021, Trương Thị H trả tiền mặt 4.200.000đồng tại nhà của H.
- Đến ngày 11-10-2021, Trương Thị H trả tiền mặt 8.400.000đồng tại nhà của H thị bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh G phát hiện bắt quả tang.
Quá trình điều tra vụ án, chị Trần Thị Thu H, bà Huỳnh Thị Bích Th và bà Nguyễn Thị Th đến Cơ quan điều tra trình báo đã vay tiền của Nguyễn Thị H với lãi suất từ 3.000 đồng đến 10.000 đồng/1.000.000 đồng/01 ngày (tương đương từ 109,5% đến 365%/năm). Cơ quan điều tra cũng trích xuất bản sao một số tài liệu có liên quan bản gốc các giấy mượn tiền và lưu vào hồ sơ vụ án để điều tra về hành vi cho vay lãi nặng của H
2. Giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm:
Tại bản án hình sơ thẩm số 150/2022/HSST ngày 23-9-2022 của Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh G đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội: “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”.
Áp dụng Khoản 1 Điều 201, các điểm i và s Khoản 1 Điều 51, Điều 35, Điều 50 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H số tiền là 120.000.000đ (một trăm hai mươi triệu đồng).
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, xử lý tiền thu lợi bất chính, tuyên nghĩa vụ chịu án phí và quyền kháng cáo của bị cáo, người liên quan theo quy định pháp luật
3. Kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Chị Trương Thị H, Trần Thị Thu H, Nguyễn Thị Thuận, Huỳnh Thị Bích Th kháng cáo đề nghị huỷ bản án sơ thẩm Ngày 31/10/2022 chị Trương Thị H có đơn rút toàn bộ kháng cáo. Toà án nhân dân tỉnh G ra Thông báo số 142/2022/TB-TA ngày 5/12/2022 thông báo về việc rút kháng cáo của chị Trương Thị H
4. Diễn biến tại phiên tòa phúc thẩm:
Tại phiên tòa phúc thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không cung cấp thêm chứng cứ gì, giữ nguyên nội dung kháng cáo Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người có quyền, nghĩa vụ liên quan Trần Thị Thu H, ông Đỗ Trúc L đề nghị huỷ bản án sơ thẩm, điều tra bổ sung Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, giữ nguyên bản án sơ thẩm
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên toà vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Huỳnh Thị Bích Th. Căn cứ Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Từ ngày 5/8/2021 đến ngày 11/10/2021 Nguyễn Thị H cho Trương Thị H vay 280.000.000 đồng, với mức lãi suất 3000 đồng/1.000.000 đồng/ngày, tương đương 109,5%/năm, thoả thuận cứ 5 ngày trả tiền lãi một lần, với số tiền 4.200.000 đồng. Theo thoả thuận Hà phải trả cho H số tiền lãi là 57.120.000 đồng, tổng cộng Trương Thị Hđã trả lãi cho Nguyễn Thị H là 50.400.000 đồng, thu lợi bất chính 46.687.123 đồng (số tiền lãi tương ứng mức lãi suất 20%/năm là 10.432.877 đồng). Hành vi của Nguyễn Thị H cho Trương Thị Hvay 280.000.000 đồng, mức lãi suất 109,5%/năm, gấp 5 lần trở lên mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật Dân sự và thu lợi bất chính số tiền 46.687.123 đồng đã đủ yếu tố cấu thành tội “cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự” theo quy định tại khoản 1 Điều 201 Bộ luật Hình sự. Toà sơ thẩm xét xử bị cáo về tội danh và điều luật như trên là có căn cứ, đúng tội, không oan.
[3] Xét kháng cáo của chị Trần Thị Thu H, Nguyễn Thị Thvà Huỳnh Thị Bích Th, đề nghị huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm vì cho rằng quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án còn nhiều tình tiết chưa được làm rõ như lời khai, dữ liệu tin nhắn, chứng từ sao kê ngân hàng để xác định hành vi của Nguyễn Thị H là cho vay lãi nặng, thấy rằng:
[3.1] Đối với kháng cáo của chị Trần Thị Thu H: chị Hà trình bày việc vay tiền của bị cáo tại hai thời điểm trước ngày 5/6/2021 gồm 8 khoản vay với số tiền 1.265.000.000 đồng, lãi suất từ 12 đến 15 %/tháng, đã trả lãi 1.153.800.000 đồng, bằng hình thức trả tiền mặt, nhờ anh Ngô Thanh Q chuyển khoản và cấn trừ nhà và đất tại xã Ia Der, huyện Ia Grai, tỉnh G, hiện đã thanh toán xong các khoản nợ này, thể hiện tại giấy xoá nợ ngày 5/6/2021 do chị Hà giữ; sau ngày 5/6/2021 chị có vay của Nguyễn Thị H số tiền 650.000.000 đồng thể hiện tại các giấy vay ngày 26/5/2021, ngày 11/8/2021 và ngày 25/10/2021, lãi suất 2.500 đồng/1.000.000 đồng/ngày. Đối với các khoản vay trước ngày 5/6/2021 chị Trần Thị Thu H cung cấp nội dung các tin nhắn giữa chị và bị cáo, chứng từ sao kê Ngân hàng việc ông Quảng chuyển tiền cho bị cáo, cho rằng bị cáo cho vay lãi nặng đối với khoản vay này Bị cáo Nguyễn Thị H trình bày: trước ngày 5/6/2021 có cho chị Trần Thị Thu H vay tiền nhiều lần, lãi suất hai bên thoả thuận 5%/tháng, tuy nhiên không nhớ cho vay bao nhiêu khoản, có nhận tiền trả lãi bằng tiền mặt nhưng không nhớ đã nhận bao nhiêu, của khoản vay nào; số tiền ông Q chuyển khoản là trả tiền gốc chứ không phải tiền lãi. Hiện hai bên đã thanh toán xong các khoản vay trước ngày 5/6/2021 thể hiện tại giấy xoá nợ ngày 5/6/2021 do chị Trần Thị Thu H giữ HĐXX xét thấy: theo chị Trần Thị Thu H mức lãi suất của từng vay, việc trả lãi được thể hiện qua nội dung các tin nhắn giữa chị Trần Thị Thu H và bị cáo nhưng không rõ ràng, các số liệu được viết tắt, không thể hiện việc chị Trần Thị Thu H đã trả lãi bao nhiêu, của khoản vay cụ thể nào, và cũng không được bị cáo thừa nhận; ngoài lời khai của chị Trần Thị Thu H và bị cáo, không có chứng cứ gì chứng minh lãi suất vay và tiền lãi đã trả cho bị cáo; người làm chứng anh Ngô Thanh Q khai có 1 số lần chuyển tiền bằng tài khoản của anh Q cho bị cáo nhưng không biết là tiền gì, mặc khác nội dung chuyển khoản cũng không thể hiện việc trả tiền gốc hay lãi. Do đó, không có căn cứ để xác định việc bị cáo có cho vay lãi nặng và thu lợi bất chính từ việc cho vay đối với 8 khoản vay trước ngày 5/6/2021 như chị Trần Thị Thu H trình bày [3.2] Đối với kháng cáo của chị Huỳnh Thị Bích Th, Nguyễn Thị Th:
Quá trình sơ thẩm chị Huỳnh Thị Bích Th khai có vay bị cáo số tiền 90.000.000 đồng, lãi suất thoả thuận miệng là 5%/tháng, vay số tiền 20.000,000 đồng, lãi suất thoả thuận miệng là 24%/tháng, đã trả cho bị cáo tiền lãi 140.000.000 đồng;
Chị Nguyễn Thị Th khai có vay của bị cáo số tiền 800.000.000 đồng lãi suất thoả thuận miệng là 5000 đồng/triệu/ngày, tương đương 15%/tháng, tuy nhiên trong đó chỉ có 280.000.000 đồng là tiền gốc, còn lại 520.000.000 đồng là tiền lãi, đối với số tiền gốc 280.000.000 đồng, chị đã trả lãi cho bị cáo là 200.000.000 đồng HĐXX xét thấy: Ngày 11/10/2021 khi phát hiện bắt quả tang, tại nhà của bị cáo thu giữ 02 giấy mượn tiền ngày 23/6/2019 số tiền 90.000.000 đồng, ngày 5/10/2019 số tiền 20.000.000 đồng của người mượn tiền là Huỳnh Thị Bích Th, không có giấy tờ thể hiện việc cho vay đối với chị Nguyễn Thị Th. Chị Huỳnh Thị Bích Th và chị Nguyễn Thị Th đều thừa nhận, việc vay mượn hai bên chỉ thoả thuận bằng miệng, việc trả lãi bằng tiền mặt, tuy nhiên các lần trả lãi không lập giấy tờ, ngoài lời khai đã trình bày, không có tài liệu chứng cứ gì chứng minh việc trả lãi cho bị cáo vượt quá mức lãi suất theo quy định tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự, cũng không có chứng cứ gì chứng minh tiền lãi được cộng dồn thành tiền gốc theo như trình bày của chị Huỳnh Thị Bích Th và chị Nguyễn Thị Th. Do đó, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của chị Huỳnh Thị Bích Th và chị Nguyễn Thị Th về việc bị cáo có cho vay lãi nặng và thu lợi bất chính từ việc cho vay.
Từ những nhận định trên, HĐXX xét thấy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Trần Thị Thu H, Huỳnh Thị Bích Th và Nguyễn Thị Th
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 351, điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015
1. Không chấp nhận kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩ vụ liên quan chị Trần Thị Thu H, Huỳnh Thị Bích Th, Nguyễn Thị Th. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 150/2022/HSST ngày 23/9/2022 của Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh G Áp dụng khoản 1 Điều 201, các điểm i và s khoản 1 Điều 51, Điều 35, Điều 50 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H số tiền là 120.000.000đ (một trăm hai mươi triệu đồng) về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”.
2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự số 01/2023/HS-PT
Số hiệu: | 01/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/01/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về