Bản án về tội chiếm giữ trái phép tài sản số 29/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỚI BÌNH, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 29/2022/HS-ST NGÀY 23/09/2022 VỀ TỘI CHIẾM GIỮ TRÁI PHÉP TÀI SẢN

Trong ngày 23 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 30/2022/TLST- HS, ngày 31 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2022/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Ngô Mộng T, sinh năm 1982 tại Cà Mau; nơi cư trú: Ấp CS, HTK, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm vuông; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Ngô Hùng Q, sinh năm 1955 (còn sống) và Nguyễn Thị N, sinh năm 1958 (còn sống); anh chị em ruột 04 người, lớn nhất sinh năm 1978, nhỏ nhất sinh năm 1985; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị kết án; cấm đi khỏi nơi cư trú ngày 29/6/2022 đến ngày 24/8/2022. Bị cáo có mặt tại phiên tòa. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Ông Lâm Văn A, sinh năm 1962 Địa chỉ: Ấp CS, HTK, huyện hới Bình, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 08/4/2021, Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh CM - Phòng giao dịch huyện TB tổ chức buổi giao dịch cho người dân vay vốn tại Hội trường Uỷ ban nhân dân xã HTK từ 06 giờ 50 phút đến 14 giờ 10 phút. Ông Lâm Văn A là Tổ trưởng tổ vay vốn ấp CS, HTK, huyện Thới Bình và 18 tổ viên của ấp gồm Trần Thị P, Nguyễn Văn R, Ngô Mộng T, Nguyễn Kim L, Phan Thị A, Lê Bích N, Trương Thị L, Trương Thị L, Phạm Thị T, Nguyễn Kim L, Trương Thị N, Nguyễn Thị L, Trần Minh T, Lê Hoài B, Lê Minh H, Lê Bảo Q, Phạm Thị C, Lê Kim N có đến hội trường để làm thủ tục vay vốn. Đến khoảng 11 giờ 30 phút thì đến tổ ấp CS, HTK, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau làm thủ tục vay. Lúc này, ông A đi đến trước bàn giao dịch của Ông A để hướng dẫn các tổ viên của ấp làm thủ tục. Trước bàn giao dịch bố trí hai ghế để tổ viên đến làm thủ tục, bà H làm thủ tục trả nợ cũ và cho vay lại lần lượt từng người, xong người này mới đến người khác. Do ông A biết trong tổ có 06 người gồm: Nguyễn Kim L, Lê Bích N, Nguyễn Kim L, Nguyễn Thị L, Trần Minh T, Lê Minh H không có tiền để trả nợ cũ nên ông A nói để ông mượn tiền của người vay trước cho những người này mượn. Bà Trần Thị P là người vay đầu tiên trong tổ, vay được số tiền 30.000.000 đồng, ông A có hỏi mượn tiền bà P để cho những người này mượn trả ngân hàng. Khi vừa nhận được tiền tại bàn giao dịch, bà P đưa cho ông A mượn 20.000.000 đồng. Sau khi đưa tiền cho ông A, do bận công việc nên bà P về trước. Lúc này, đến lượt Ngô Mộng T làm thủ tục vay, bà Tống Diệu H đã in phiếu giao dịch thể hiện việc T trả 11.500.000 đồng nợ cũ nhưng gọi tên nhiều lần không có mặt, nên bà H để lại phiếu giao dịch của T và đến lượt người khác lên làm thủ tục. Do ông A bận hướng dẫn tổ viên làm thủ tục, nên ông A đã đưa cho ông Trần Minh T giữ số tiền 20.000.000 đồng để đưa cho những người không có tiền mượn làm thủ tục. Trong lúc bà T đang làm thủ tục, thì bà Lê Bích N được kêu đến bàn giao dịch đợi đến lượt, lúc này ông T đưa cho bà T số tiền 12.000.000 đồng để trả nợ cũ. Sau khi T trả nợ cũ và vay lại được 20.000.000 đồng thì T cầm tiền trên tay rời khỏi bàn giao dịch đi xuống phía dưới hội trường ngồi đợi bà Phạm Thị C (do bà T đi chung xe với bà C). Bà N, sau khi vay được số tiền 20.000.000 đồng đã đưa hết cho ông A. Trong đó: Trả cho ông A 12.000.000 đồng, nhờ ông A trả tiền giùm con bà còn nợ ngân hàng 4.000.000 đồng, số còn lại nhờ ông A giữ về đưa lại cho bà. Sau khi T rời khỏi bàn giao dịch, ông A vẫn đứng gần bàn giao dịch để hướng dẫn các tổ viên còn lại làm thủ tục và lần lượt cho những người khác mượn làm thủ tục xong nhận được tiền thì trả lại cho ông A để cho người khác mượn. Ông A rời khỏi bàn giao dịch định đi về, khi vừa ra đến cửa Hội trường thì nhân viên ngân hàng gọi ông lại vì trong tổ còn 02 người chưa làm xong thủ tục vay. Lúc này, ông A nhớ có mượn tiền của một người phụ nữ trong tổ, thấy T đang ngồi dưới Hội trường nên ông A đến đưa cho T 20.000.000 đồng vì nhầm lẫn với bà P, rồi quay lại bàn giao dịch để hướng dẫn người khác.

Đến ngày hôm sau, không thấy ông A trả tiền nên bà P gọi điện hỏi thì ông A nhớ đã trả nhầm cho T, ông A có gọi điện thoại và trực tiếp đến nhà T yêu cầu T giao lại số tiền 20.000.000 đồng ông đã trả nhầm ngày 08/4/2021 nhưng T không đồng ý trả, vì cho rằng ngày 08/4/2021 tại Hội trường T có cho ông A mượn 20.000.000 đồng. Quá trình giải quyết đơn yêu cầu và đơn khởi kiện của ông Lâm Văn A về việc yêu cầu T trả lại cho ông số tiền 20.000.000 đồng ông đã đưa nhầm cho T ngày 08/4/2021, đã được Công an xã HTK và Thẩm phán được phân công hoà giải, yêu cầu T trả lại cho ông A 20.000.000 đồng nhưng T không đồng ý. Nên vụ việc chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công A huyện Thới Bình giải quyết theo quy định pháp luật.

Buổi giao dịch của Ngân hàng có Camera ghi hình lại toàn bộ qúa trình giao dịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thới Bình đã tiến hành thu thập và trưng cầu giám định. Kết luận giám định số 150/KL-KTHS ngày 17/6/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công A tỉnh Cà Mau kết luận: Không phát hiện dấu vết cắt, dán, ghép nối, chỉnh sửa nội dung hình ảnh trong tập tin video cần giám định.

Ngày 19/5/2022, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thới Bình tiến hành khám nghiệm hiện trường theo quy định. Ông A, bà P, bà N, ông R xác định vụi trí bà P cho ông A mượn tiền là trước bàn giao dịch, đến camera 2,75mét, Vị trí ông A trong quá trình giao dịch cách camera là 2,6 mét, đến bàn giao dịch là 0,8 mét. Riêng T xác định vị trí T cho ông A mượn tiền là trong hội trường cách cửa ra vào bên hong ở hướng phía Nam là 0,8 mét, cách bàn giao dịch 3,95 mét, cách vị trí Ngân hàng đặt camera ghi lại quá trình giao dịch là 5,8 mét, ông A đứng cách T 0,35 mét.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thới Bình đã tiến hành mở chiếu đoạn video từ Camera ghi hình của Ngân hàng buổi giao dịch ngày 08/4/2021 tại hội trường có sự tham gia của bị cáo T. Bị cáo xác định hình ảnh của bị cáo và ông A trong buổi giao dịch. Nội dung camera thể hiện: Camera đã ghi lại toàn cảnh hội trường nơi diễn ra giao dịch. Ông A luôn đứng ở khu vực bàn giao dịch, ông A có mượn tiền của bà P; ông A đã cho bà L, bà N mượn tiền trước khi T vay được tiền. Ông A chỉ rời khỏi bàn giao dịch khi đi đến đưa tiền cho T. Trong suốt quá trình giao dịch của tổ vay vốn ấp CS, HTK cả ông A và T không đến vị trí T xác định cho ông A mượn tiền khi khám nghiệm hiện trường, cũng như không có việc T đưa tiền cho ông A mượn như lời trình bày của T.

Vật chứng của vụ án: Quá trình điều tra, ông Nguyễn Trọng N – Phó giám đốc Phòng giao dịch huyện TB thuộc Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh Cà Mau cung cấp cho cơ quan điều tra Công an huyện Thới Bình Bình đoạn video có dung lượng 6,34GB ghi lại buổi giao dịch của Ngân hàng ngày 08/4/2021 tại Hội trường Ủy ban nhân dân xã HTK. Đoạn video được lưu trữ trong 01 (một) USB hiệu Apacer, màu xanh – đen được niêm phong trong túi niêm phong do Bộ Công A cấp. Hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thưới Bình đang quản lý.

Trách nhiệm dân sự: Ông A yêu cầu bị cáo T trả lại 20.000.000 đồng mà ông đã trả nhầm cho bị cáo vào ngày 08/4/2021, bị cáo T đã nộp khắc phục cho ông A tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thới Bình. Đối với số tiền 20.000.000 đồng, ông A mượn của bà P, ông A đã trả, bà P không có yêu cầu gì về số tiền này.

Cáo trạng số 32/CT-VKS ngày 30 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau truy tố bị cáo Ngô Mộng T, về tội “Chiếm giữ trái phép tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 176 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ y cáo trạng đã truy tố và đề nghị:

Áp dụng khoản 1 Điều 176; các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự, tuyên bố bị cáo Ngô Mộng T phạm tội “Chiếm giữ trái phép tài sản”. Phạt bị cáo T từ 03 tháng đếns 06 tháng tù nhưng được hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 năm kể từ ngày tuyên án.

Vật chứng của vụ án:

Đề nghị lưu hồ sơ 01 (một) USB hiệu Apacer, màu xanh – đen được niêm phong trong túi niêm phong do Bộ Công A cấp.

Bị cáo thừa nhận các hành vi phạm tội như đã truy tố nêu trên và xin được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo T không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Ông Lâm Văn A là Tổ trưởng tổ vay vốn của ấp CS, ngày 08/4/2021, tại Hội trường Ủy ban nhân dân xã HTK, ông A có mượn của bà Trần Thị P 20.000.000 đồng để cho một số tổ viên trong tổ mượn làm thủ tục đáo hạn và vay vốn của Phòng giao dịch huyện Thới Bình thuộc Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Cà Mau. Sau đó, ông A đã trả nhầm cho Ngô Mộng T số tiền 20.000.000 đồng. Ông A, Công A xã HTK, Tòa án nhân dân huyện Thới Bình đã nhiều lần yêu cầu nhưng bị cáo không đồng ý trả lại tiền cho ông A.

[3] Bị cáo Ngô Mộng T thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và các tài liệu đã thu thập có tại hồ sơ. Từ những căn cứ đã nêu có cơ sở kết luận hành vi của bị cáo T đã phạm vào tội “ Chiếm giữ trái phép tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 176 Bộ luật hình sự. Cáo trạng số 32/CT-VKS ngày 30/8/2022 mà Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[4] Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ khả năng để nhận biết hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ nhưng vì bản tính tham lam, lười lao động, thích hưởng thụ nên bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, lẽ ra sau khi nhận tiền trả nhầm, ông A yêu cầu bị cáo trả lại tiền, Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án dân sự bị cáo không tự nguyện trả, không thống nhất trả lại tiền cho ông A dẫn đến bị truy tố và xét xử tại phiên tòa hôm nay, lỗi thực hiện hành vi là lỗi cố ý nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi đã thực hiện. Do đó hành vi trái pháp luật của bị cáo cần xử lý nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra.

[5] Khi áp dụng hình phạt, Hội đồng có xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo như: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo đã khắc phục hậu quả cho bị hại, bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng rõ ràng, không tiền án, tiền sự, có trình độ văn hóa thấp nên cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự cho bị cáo hưởng án treo thể hiện sự khoan hồng của pháp luật nhưng cũng có tác dụng phòng ngừa và giáo dục đối với bị cáo.

[6] Vật chứng: 01 (một) USB hiệu Apacer, màu xanh – đen được niêm phong trong túi niêm phong do Bộ Công A cấp, mã số NS3 2033321, có chữ ký của ông Lê Vược C, ông Văn Minh Đ, bà Quách Thùy T và bị cáo Ngô Mông T (vật chứng hiện Cơ quan thi hành án dân sự huyện Thới Bình đang quản lý theo biên bản giao nhận ngày 05 tháng 9 năm 2022). Xét đây là vật chứng quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án nên tịch thu lưu hồ sơ vụ án là phù hợp.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Ông Lâm Văn A yêu cầu bị cáo trả lại số tiền 20.000.000 đồng mà ông đã trả nhầm cho T ngày 08/4/2021. Quá trình giải quyết vụ án, bị cáo đã tự nguyện nộp khắc phục cho ông A số tiền này tại chi cục Thi hành án dân sự huyện Thới Bình theo biên lai thu số 0002994, phát hành ngày 22/9/2022, ông A nhận lại số tiền này, đối với số tiền 20.000.000 đồng ông A mượn của bà P, ông A đã trả xong, bà P không đặt ra yêu cầu gì nên không xét là phù hợp.

[8] Các bị cáo phải chịu án phí theo khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ nêu trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 176; điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 136, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố bị cáo Ngô Mộng T phạm tội “Chiếm giữ trái phép tài sản”.

Phạt bị cáo Ngô Mộng T 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 năm kể ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã HTK, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau nơi bị cáo thường trú giám sát giáo dục trong thời gian thử thách .

Trong trường hợp bị cáo Ngô Mộng T thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về trách nhiệm dân sự:

Ông Lâm Văn A được nhận lại số tiền bị cáo T khắc phục 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thới Bình theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002994, phát hành ngày 22/9/2022.

3. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu lưu hồ sơ vụ án 01 (một) USB hiệu Apacer, màu xanh – đen được niêm phong trong túi niêm phong do Bộ Công an cấp, mã số NS3 2033321, có chữ ký của ông Lê Vược Cường, ông Văn Minh Đương, bà Quách Thùy Trang và bị cáo Ngô Mông T (vật chứng hiện Cơ quan thi hành án dân sự huyện Thới Bình đang quản lý theo biên bản giao nhận ngày 05 tháng 9 năm 2022).

4. Nghĩa vụ chịu án phí, quyền kháng cáo và thi hành án:

Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Ngô Mộng T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án này là sơ thẩm, bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội chiếm giữ trái phép tài sản số 29/2022/HS-ST

Số hiệu:29/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thới Bình - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:23/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về