Bản án về tội chế tạo, tàng trữ, sử dụng trái phép vật liệu nổ số 105/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỊNH QUÁN, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 105/2022/HS-ST NGÀY 14/09/2022 VỀ TỘI CHẾ TẠO, TÀNG TRỮ, SỬ DỤNG TRÁI PHÉP VẬT LIỆU NỔ

Ngày 14 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 104/2022/TLST-HS ngày 16/8/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 128/2022/QĐXXST-HS ngày 29/8/2022 đối với bị cáo:

Trần Thanh B, sinh ngày 24/02/2001 tại Đồng Nai.

Nơi cư trú: Tổ 4, Ấp X, xã Ph, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn S (đã chết) và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1975; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt, tạm giam từ ngày 14/01/2022 tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Đồng Nai cho đến nay “Có mặt”.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1975; địa chỉ: Tổ 4, Ấp X, xã Ph, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai (có mặt).

2. Công ty TNHH R.

Trụ sở: số X, đường L, phường B, Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

3. Anh Hoàng Văn Th, sinh năm 1995. Địa chỉ: Thôn M, xã MP, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn (vắng mặt).

Người làm chứng:

1. Bà Hồ Thị K, sinh năm 1960. Địa chỉ: Tổ 4, Ấp X, xã Ph, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).

2. Bà Võ Thị Lệ Ch, sinh năm 1969. Địa chỉ: Tổ 4, Ấp X, xã Ph, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng tháng 4/2021, bị cáo Trần Thanh B lên mạng internet học cách chế tạo pháo để bán lấy tiền tiêu xài. Bị cáo sử dụng số điện thoại 0849.995.X của mình đăng nhập vào trang thương mại điện tử L để đặt mua hàng trên shop “Kho vật tư thí nghiệm 2” của anh Hoàng Văn Th. Sau đó, bị cáo B trực tiếp điện thoại cho anh Th (không thông qua sàn thương mại điện tử L) để đặt mua 15 kg KaliCorat với giá 1.100.000 đồng (đã bao gồm phí vận chuyển). Đến ngày 12/8/2021, bị cáo tiếp tục vào sàn thương mại điện tử L đặt mua hàng trên shop “Kho vật tư thí nghiệm 2” của anh Hoàng Văn Th 06 kg Lưu huỳnh với giá 400.000 đồng và gửi hàng đến nhà của bị cáo B. Bị cáo tiếp tục đến cửa hàng bán thiết bị vật tư ngành nước mua ống nhựa ø21 và nắp chụp nhựa PVC ø27, màng nilon bọc thực phẩm, keo dán sắt và một số vật dụng khác với số tiền 600.000 đồng để chế tạo vật liệu nổ.

Đầu tháng 01/2022, bị cáo B pha trộn các chất hóa học theo hướng dẫn trên mạng internet bao gồm Lưu huỳnh và KaliCorat theo tỷ lệ, rồi bỏ vào ống nhựa PVC ø21 đã bịt trước một đầu bằng keo dán sắt, đầu còn lại bị cáo bịt bằng nắp chụp bằng nhựa có đục lỗ, sau đó bị cáo lấy một phần thuốc (vật liệu nổ) đã trộn sẵn rải lên màng bọc thực phẩm quấn lại và kéo dài thành dây cháy chậm, sau đó cắt thành từ đoạn ngắn khoảng 5cm gắn vào lỗ đục sẵn ở nắp quả nổ và cố định dây cháy chậm bằng keo dán sắt.

Đến ngày 10/01/2022, bị cáo chế tạo dược 30 quả nổ và đốt thử 01 quả nổ ngay trước sân nhà và ngày 11/01/2022 bị cáo ra trước khu vực ruộng gần nhà đốt tiếp 01 quả nổ. Sau khi đốt thử 02 quả nổ tạo được tiếng nổ, bị cáo tiếp tục chế tạo được tổng cộng 134 quả nổ (bao gồm 02 quả nổ đã đốt) thì bị Công an huyện Định Quán phát hiện thu giữ.

Vật chứng vụ án: 132 ống nhựa màu xám, 4,1 kg vật liệu nổ, 03 kg Lưu huỳnh, 8.1 kg KaliClorat và 46 đoạn dây cháy chậm.

Tại Bản kết luận giám định số 732/C09B ngày 18/01/2022 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

- 01 túi nilon bên trong chứa chất bột màu trắng vàng (ký hiệu M1) gửi đến giám định là hỗn hợp chất nguy hiểm cháy nổ, thành phần chính gồm: KaliClorat và Lưu huỳnh. Hỗn hợp này có tính năng tác dụng tương tự vật liệu nổ. Khối lượng là 4.1kg.

- 03 túi nilon chứa chất bột màu trắng (ký hiệu M2a, M2b, M2c) gửi giám định đều tìm thấy thành phần Lưu huỳnh, không phải là thuốc nổ, vật liệu nổ. Khối lượng 03 kg.

- 08 túi nilon chứa chất bộ màu trắng (ký hiệu mẫu M3a, M3b, M3c, M3d, M3e, M3f, M3g, M3h) gửi giám định đều tìm thấy thành phần Kali Clorat (KCLO3), không phải là thuốc nổ, vật liệu nổ. Khối lượng là 8,1kg.

- Khi trộn lẫn Kali Clorat (KCLO3) với lưu huỳnh (S) theo một tỷ lệ nhất định sẽ tạo thành hỗn hợp chất nguy hiểm cháy nổ.

- 132 ống nhựa màu xám (loại ống PVC) dài từ 07-08cm, được bịt kín hai đầu bằng nắp chụp nhựa có ký hiệu ø27, một đầu nắp chụp được gắn đoạn dây bọc nylon màu trắng (ký hiệu M4) gửi giám định đều là quả nổ tự tạo. Tổng khối lượng quả nổ là 7,9kg.

- 46 đoạn dây bọc nylon màu trắng (ký hiệu M5) gửi đến giám định đều là dây cháy chậm tự tạo.

Theo Kết luận giám định số 1939/KL-KTHS ngày 11/5/2022 và Công văn số 212/CV-C09B ngày 16/3/2022 của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh, kết luận:

- 132 ống nhựa màu xám (loại ống PVC) dài từ 07-08cm, được bịt kín hai đầu bằng nắp chụp nhựa có ký hiệu ø27, một đầu nắp chụp được gắn đoạn dây bọc nylon màu trắng (ký hiệu M4) gửi giám định là vật liệu nổ. Bên trong có chứa thuốc nổ tự tạo (thành phần là hỗn hợp KaliClorat và Lưu huỳnh). Do không đủ điều kiện để tháo lấy thuốc bên trong ra hoàn toàn nên không tính được khối lượng của thuốc nổ bên trong các quả nổ.

- 46 đoạn dây bọc nylon màu trắng (ký hiệu mẫu M5) gửi giám định là phụ kiện nổ. Tổng khối lượng là 97,7g, tổng chiều dài là 948cm.

- Trên 01 chậu nhựa màu xanh, 01 dĩa nhựa màu trắng, 01 dĩa kim loại; 01 mâm kim loại có tìm thấy thành phần của KaliClorat.

Ngày 07/3/2022, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Đồng Nai có Công văn số 60/ANÐT(Đ1) gửi Phân viện Khoa học hình sự (C09B) đề nghị giải thích kết luận giám định số 732/CO9B ngày 18/01/2022. Ngày 16/3/2022, Phân viện Khoa học Hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh có Công văn trả lời số 212/CV/C09B, Kết luận: 4, l kg mẫu M1 là vật liệu nổ.

Tại cáo trạng số 2959/CT-VKS-P1 ngày 18 tháng 7 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Trần Thanh B về tội “Chế tạo, tàng trữ, sử dụng trái phép vật liệu nổ” quy định tại khoản 1 Điều 305 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Quán, thừa ủy quyền của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 305 Bộ luật Hình sự, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và đề nghị xử phạt bị cáo Trần Thanh B: từ 01 năm-01 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu chuyển Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai quản lý: 01 túi nylon bên trong chứa chất bột màu trắng vàng (ký hiệu M1), khối lượng là 4,1 kg; 03 túi nylon, bên trong chứa chất bột màu vàng (ký hiệu M2a, M2b, M2c), khối lượng là 3 kg; 08 túi nylon, bên trong chứa chất bột màu trắng (ký hiệu M3a, M3b, M3c, M3d, M3e, M3f, M3g, M3h), khối lượng là 8,1 kg; 132 ống nhựa màu xám (loại ống nước PVC) dài từ 07-08cm, được bịt kín 02 đầu bằng nắp chụp nhựa ký hiệu ø27, một đầu nắp chụp được gắn đoạn dây bọc nylon màu trăng (ký hiệu M4). Tổng khối lượng là 7,9 kg; 45 đoạn dây bọc nylon màu trắng (ký hiệu M5).

- Chuyển Cơ quan thi hành án dân sự tịch thu tiêu hủy: 01 chậu nhựa màu xanh; 01 dĩa nhựa màu trắng; 01 dĩa kim loại; 01 mâm kim loại; 05 ống nhựa PVC mỗi ống dài 07cm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Định Quán, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Căn cứ để kết tội đối với bị cáo:

Căn cứ vào biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản tự khai, biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung và sự thừa nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ, thể hiện:

Vào khoảng tháng 4/2021, Trần Thanh B đã có hành vi mua các chất hóa học gồm 15kg KaliClorat và 06kg Lưu huỳnh là những thành phần hóa học dùng để pha chế thuốc nổ, chế tạo quả nổ, trên trang thương mại điện tử “L” và 124 ống nối nhựa ø21, 280 nắp chụp nhựa PVC ø27, màng bọc thực phẩm, keo dán sắt và một số vật dụng khác, mang về nhà tại phố 4, ấp X, xã Ph, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai, chế tạo ra 134 quả nổ. Ngày 10 và ngày 11/01/2022, bị cáo B đã đốt 02 quả nổ, còn 132 quả nổ có tổng khối lượng có tổng khối lượng là 7,9kg cùng 4,1kg vật liệu nổ thành phẩm; 03 kg lưu huỳnh; 8,1kg KaliClorat và 46 đoạn dây cháy chậm, B cất giấu tại nhà ở ấp X, xã Ph, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai thì bị Công an huyện Định Quán phát hiện bắt giữ.

Như vậy, Cáo trạng số 2959/CT-VKS-P1 ngày 18 tháng 7 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Trần Thanh B về “Chế tạo, tàng trữ, sử dụng trái phép vật liệu nổ” quy định tại khoản 1 Điều 305 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội:

Hành vi của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chế độ quản lý của Nhà nước về vật liệu nổ, nên việc đưa bị cáo ra xét xử tại phiên tòa này hôm nay là cần thiết nhằm tăng cường công tác đấu tranh, phòng chống loại tội phạm này tại địa phương; cần áp dụng cho bị cáo một mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhằm giáo dục các bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và phòng ngừa chung là cần thiết.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ là “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” thuộc trường hợp quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra bị cáo có nhân thân tốt, là lao động chính trong gia đình, có trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật còn hạn chế là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về vật chứng vụ án:

- 01 túi nylon bên trong chứa chất bột màu trắng vàng (ký hiệu M1), khối lượng là 4,1 kg; 03 túi nylon, bên trong chứa chất bột màu vàng (ký hiệu M2a, M2b, M2c), khối lượng là 3 kg; 08 túi nylon, bên trong chứa chất bột màu trắng (ký hiệu M3a, M3b, M3c, M3d, M3e, M3f, M3g, M3h), khối lượng là 8,1 kg;

132 ống nhựa màu xám (loại ống nước PVC) dài từ 07-08cm, được bịt kín 02 đầu bằng nắp chụp nhựa ký hiệu ø27, một đầu nắp chụp được gắn đoạn dây bọc nylon màu trăng (ký hiệu M4). Tổng khối lượng là 7,9 kg; 45 đoạn dây bọc nylon màu trắng (ký hiệu M5). Là những vật nổ nên tịch thu chuyển Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai quản lý.

- 01 chậu nhựa màu xanh; 01 dĩa nhựa màu trắng; 01 dĩa kim loại; 01 mâm kim loại; 05 ống nhựa PVC mỗi ống dài 07cm. Xét không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[6] Về các vấn đề khác:

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Huawei YS9 có gắn sim số 0849.995.X B sử dụng đặt mua nguyên liệu làm quả nổ, B khai nhận là điện thoại do B mua, còn sim là của mẹ ruột tên Nguyễn Thị L cho. Khi bị phát hiện, B đã để điện thoại ở nhà mẹ ruột, do bà L đã làm thất lạc nên Cơ quan điều tra không thu giữ được điện thoại nên không xem xét.

- Đối với Hoàng Văn Th, là người bán KaliClorat và lưu huỳnh cho B thông qua trang thương mại điện tử “L” nhưng Thắng không biết B mua về để chế tạo chất nổ nên không có căn cứ xử lý Th là phù hợp.

- Đối với hành vi bán hóa chất trên sản thương mại điện tử “L” của Công ty TNHH R. Sau khi nhận được công văn của Cơ quan điều tra xác minh các mã vận đơn của B, công ty đã tiến hành rà soát và tháo gỡ toàn bộ thông tin đang bán sản phẩm lưu huỳnh của các nhà bán hàng hiện đang được đăng bán trên sàn thương mại điện tử “L” nên không xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Xét quan điểm đề nghị của Viện kiểm sát về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét khi quyết định hình phạt.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Thanh B phạm tội “Chế tạo, tàng trữ, sử dụng trái phép vật liệu nổ”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 305; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

2. Xử phạt: bị cáo Trần Thanh B: 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/01/2022.

3. Về vật chứng:

- Tịch thu chuyển Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai quản lý: 01 túi nylon bên trong chứa chất bột màu trắng vàng (ký hiệu M1), khối lượng là 4,1 kg; 03 túi nylon, bên trong chứa chất bột màu vàng (ký hiệu M2a, M2b, M2c), khối lượng là 3 kg; 08 túi nylon, bên trong chứa chất bột màu trắng (ký hiệu M3a, M3b, M3c, M3d, M3e, M3f, M3g, M3h), khối lượng là 8,1 kg; 132 ống nhựa màu xám (loại ống nước PVC) dài từ 07-08cm, được bịt kín 02 đầu bằng nắp chụp nhựa ký hiệu ø27, một đầu nắp chụp được gắn đoạn dây bọc nylon màu trăng (ký hiệu M4). Tổng khối lượng là 7,9 kg; 45 đoạn dây bọc nylon màu trắng (ký hiệu M5).

(Đặc điểm, tình trạng vật chứng theo Lệnh nhập kho của Phòng Kỹ thuật - Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Đồng Nai ngày 25/7/2022).

- Tịch thu tiêu hủy: 01 chậu nhựa màu xanh; 01 dĩa nhựa màu trắng; 01 dĩa kim loại; 01 mâm kim loại; 05 ống nhựa PVC mỗi ống dài 07cm.

(Đặc điểm, tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 18/7/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai).

4. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

5
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội chế tạo, tàng trữ, sử dụng trái phép vật liệu nổ số 105/2022/HS-ST

Số hiệu:105/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Định Quán - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:14/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về