Bản án về tội buôn lậu số 28/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ KIẾN TƯỜNG, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 28/2022/HS-ST NGÀY 22/11/2022 VỀ TỘI BUÔN LẬU

Bản án 28/2022/HS-ST ngày 22/11/2022 về tội buôn lậu

Ngày 22 tháng 11 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 24/2022/TLST-HS ngày 04 tháng 10 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/QĐXXST- HS ngày 03 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo:

Hồ Hoàng L, sinh năm 1975; Nơi sinh: huyện M, tỉnh L; Nơi cư trú: Ấp B, xã B1, huyện M, tỉnh L; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hồ T (đã chết) và bà Nguyễn Thị Đ; Vợ tên Trần Thị L1 (đã ly hôn); Con có 02 người lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2004; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 22/6/2018 bị Ủy ban nhân dân tỉnh Long An xử phạt vi phạm hành chính số tiền 85.000.000 đồng, về hành vi “Vận chuyển hàng cấm thuốc lá điếu nhập lậu” theo Quyết định số 2110/QĐ-XPVPHC, đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử phạt hành chính; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Long An và Nhà tạm giữ Công an thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An từ ngày 23/02/2022 đến ngày 23/5/2022 cho bảo lĩnh đến nay có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Trần V M, sinh năm 1999; Nơi cư trú: Ấp B, xã B1, huyện M, tỉnh L.

2. Đào Minh Hân Q, sinh năm 1996; Nơi cư trú: Ấp B, xã B1, huyện M, tỉnh L.

3. Nguyễn Tr S (Cường), sinh năm 1979; Nơi cư trú: Khu phố X, Phường X, thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An.

4. Trương V C(B), sinh năm 1992; Nơi cư trú: Ấp Ô, xã B, thị xã K, tỉnh L.

5. Đỗ V C1(Chan), sinh năm 1984; Nơi cư trú: Ấp Ô, xã B, thị xã K, tỉnh L.

6. Trương V T1(Rô), sinh năm 1988; Nơi cư trú: Ấp Ô, xã B, thị xã K, tỉnh L.

7. Trương Tấn P, sinh năm 1998; Nơi cư trú: Ấp M, xã T3, huyện M, tỉnh L.

8. Nguyễn V N, sinh năm 1997; Nơi cư trú: Ấp B, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

9. Phan Lê Bảo T2, sinh năm 1999; Nơi cư trú: Khu 2, thị trấn C, huyện C1, tỉnh T

10. Nguyễn Thị Bé T3, sinh năm 2000; Nơi cư trú: Khu 2, thị trấn C, huyện C1, tỉnh T

11. Trương Quang N, sinh năm 1982; Nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

12. Nguyễn Thị Thu H1, sinh năm 1980; Nơi cư trú: Ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

13. Võ Thùy T4 (N), sinh năm 1979; Nơi cư trú: : Ấp O, xã B, thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An.

14. Nguyễn V B, sinh năm 1969; Nơi cư trú: Ấp Đ, xã B, thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An.

Tất cả đều vắng mặt.

Người làm chứng:

1. Nguyễn Thị S, sinh năm 1982; Nơi cư trú: Ấp G, xã B, thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An.

2. Nguyễn V B1, sinh năm 1991; Nơi cư trú: Ấp G, xã B, thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An.

3. Trần Công C2(Đ), sinh năm 1986; Nơi cư trú: Ấp O, xã B, thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An.

4. Nguyễn V T5, sinh năm 1988; Nơi cư trú: Ấp O, xã B, thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An.

5. Đoàn Hữu T6 (E), sinh năm 1970; Nơi cư trú: Ấp Ô, xã B, thị xã K, tỉnh L.

6. Lê Minh T7, sinh năm 1986; Nơi cư trú: Ấp Ô, xã B, thị xã K, tỉnh L.

7. Trần V G, sinh năm 1982; Nơi cư trú: Ấp Ô, xã B, thị xã K, tỉnh L.

8. Trương V D (U), sinh năm 1970; Nơi cư trú: Ấp B, xã B1, huyện M, tỉnh L.

Tất cả đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tại bản cáo trạng 24/CT-VKSKT ngày 30 tháng 9 năm 2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An truy tố ra trước Tòa án nhân dân thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An để xét xử bị cáo Hồ Hoàng L về tội “Buôn lậu” quy định tại khoản 1 Điều 188 của Bộ luật Hình sự. Hành vi phạm tội của bị cáo Hồ Hoàng L diễn biến như sau:

Ngày 23/11/2021 Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu Công an tỉnh Long An phối hợp với Công an thị xã Kiến Tường, Công an huyện Mộc Hóa và Đồn Biên phòng cửa khẩu quốc tế B bắt giữ đồng thời tại 03 địa điểm như sau:

Địa điểm thứ nhất: Lúc 01 giờ 30 phút ngày 23/11/2021 tại vị trí chân cầu số 3, đường tuần tra biên giới (phía bên phải theo hướng đi cửa khẩu B), thuộc Ấp O, xã B, thị xã Kiến Tường phát hiện quả tang vụ vận chuyển trái phép hàng hóa là đường cát từ Campuchia vào lãnh thổ Việt Nam. Hai người bị phát hiện gồm: Nguyễn V S, sinh năm: 1982, hộ khẩu thường trú: Ấp G, xã B, thị xã Kiến Tường và Trần V M, sinh năm: 1999, hộ khẩu thường trú: Ấp B, xã B1, huyện M, tỉnh L. Tang vật thu giữ: 05 bao đường cát, loại 50kg/bao, bao bì in nhãn hiệu ĐƯỜNG CÁT MST của Công ty TNHH MTV XNK TMTH L, địa chỉ: Ấp A, xã An Cư, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

Địa điểm thứ hai: Lúc 01 giờ 30 phút ngày 23/11/2021 tại khu đất trống cặp nhà số 46 của ông Nguyễn V B, sinh năm: 1969, thuộc Ấp Đ, xã B, thị xã Kiến Tường phát hiện 44 bao đường cát, loại 50kg/bao, bao bì in nhãn hiệu ĐƯỜNG CÁT MST của Công ty TNHH MTV XNK TMTH L, địa chỉ: Ấp A, xã An Cư, huyện C, tỉnh Tiền Giang. Liền kề là xe ô tô tải biển kiểm soát 63H-xxxxx do tài xế Nguyễn V N, sinh năm: 1997, hộ khẩu thường trú: Ấp B, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang điều khiển, trên thùng xe có chứa 10 thùng bia SPECIAL (01 thùng 24 lon).

Trên đoạn đường từ cầu số 3 đến khu đất trống trên, phát hiện xe mô tô biển kiểm soát 60C1-xxxx do Đào Minh Hân Q, sinh năm: 1996, tạm trú: Ấp B, xã B1, huyện M, tỉnh L điều khiển vận chuyển 04 bao đường cát, loại 50kg/bao và xe mô tô biển kiểm soát 62N1-xxxx do Nguyễn Tr S (Cường), sinh năm: 1979, hộ khẩu thường trú: Khu phố 2, Phường 1, thị xã Kiến Tường điều khiển vận chuyển 04 bao đường cát, loại 50kg/bao, bao bì in nhãn hiệu ĐƯỜNG CÁT MST của Công ty TNHH MTV XNK TMTH L, địa chỉ: Ấp A, xã An Cư, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

Địa điểm thứ ba: Lúc 1 giờ 25 phút ngày 23/11/2021 trên tuyến Quốc lộ 62 thuộc Ấp 5, xã T2 Lập, huyện M, tỉnh L, tiến hành kiểm tra xe ô tô tải biển kiểm soát 62C-xxxx do tài xế Phan Lê Bảo T2, sinh năm: 1999, hộ khẩu thường trú: Khu 2, thị trấn C, huyện C, tỉnh Tiền Giang điều khiển đi cùng vợ là Nguyễn Thị Bé T3, sinh năm: 2000. Qua kiểm tra phát hiện trên xe vận chuyển 180 bao đường cát, loại 50kg/bao, bao bì in nhãn hiệu ĐƯỜNG CÁT MST của Công ty TNHH MTV XNK TMTH L, địa chỉ: Ấp A, xã An Cư, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

Quá trình điều tra xác định: Vào khoảng 00 giờ ngày 23/11/2021, các bao đường cát được người Campuchia sử dụng xe mô tô vận chuyển theo đường mòn từ địa phận Campuchia đến khu đất trống phía bên phải lan can cầu số 3 đường tuần tra biên giới thuộc Ấp O, xã B, thị xã Kiến Tường, cách đường biên giới hiện trạng giữa Việt Nam - Campuchia là 20 mét, cách lan can cầu số 3 là 50 mét. Sau đó 07 người gồm: Nguyễn V B, sinh năm: 1991, ngụ Ấp G, xã B, thị xã Kiến Tường, Trần Công C2 (Đ), sinh năm: 1986, Nguyễn V T, sinh năm: 1988, cùng hộ khẩu thường trú: Ấp O, xã B, thị xã Kiến Tường, Đoàn Hữu Th (E), sinh năm: 1970, Lê Minh Tr, sinh năm: 1986, Trần V Gấu, sinh năm: 1982, cùng hộ khẩu thường trú: Ấp Ông Nhan Đông, xã B, thị xã Kiến Tường, Trương V D (U), sinh năm: 1970, hộ khẩu thường trú: Ấp B, xã B1, huyện M, tỉnh L nhận các bao đường cát và bốc vác chuyển lên cho Nguyễn V S đứng tại lan can cầu số 3 để nhận các bao đường rồi bốc vác bỏ lên các xe mô tô cho nhóm của Trần V M gồm: M, Đào Minh Hân Q, Nguyễn Tr S (Cường) và 03 người tên V, Đ và N chưa xác định được họ tên và địa chỉ, mỗi lần S bốc vác 04 bao đường lên mỗi xe vận chuyển đến điểm tập kết tại khu đất trống cặp nhà số 46, Ấp Đ, xã B xong quay lại cầu số 3 để vận chuyển tiếp. Nhóm bóc vác tại khu đất trống cặp nhà số 46, Ấp Đ, xã B có 04 người gồm: Trương V C(B), sinh năm: 1992, Đỗ V C1(Chan), sinh năm: 1984, Trương V T1(Rô), sinh năm: 1988, cùng hộ khẩu thường trú: Âp Ông Nhan Đông, xã B, thị xã Kiến Tường và Trương Tấn P, sinh năm:

1998, hộ khẩu thường trú: Ấp M, xã T2 Thành, huyện H, tỉnh Long An có nhiệm vụ bốc vác đường cát từ xe mô tô lên xe ô tô tải. Nhóm này đã chất đầy đường cát lên xe ô tô tải thứ nhất biển kiểm soát 62C-xxxx rời đi theo Quốc lộ 62. Lúc này các xe mô tô tiếp tục đang chở đường cát đến nên Ch, C1, T2, Ph chất xếp 44 bao đường cát thành hàng tại khu đất trống, khi xe ô tô tải thứ hai biển kiểm soát 63H-xxxxx vừa đến mở cửa thùng xe chuẩn bị nhận đường thì lực lượng Công an bắt giữ.

Nhóm bóc vát của Nguyễn V S khai nhận do Võ Thùy Tr (N), sinh năm: 1979, hộ khẩu thường trú: Ấp O, xã B, thị xã Kiến Tường thuê vận chuyển đường cát từ địa điểm cách cầu số 3 là 50 mét thuộc lãnh thổ Việt Nam lên đường tuần tra biên giới để giao cho nhóm khác vận chuyển tiếp, nhưng Tr chỉ thừa nhận thuê S vận chuyển 57 bao đường bán lại cho L, số còn lại Tr không biết từ đâu mà có. Riêng Hồ Hoàng L là người thuê nhóm của Trần V M vận chuyển từ cầu số 3, thuộc Ấp O, xã B về khu đất trống cặp nhà số 46, Ấp Đ, xã B và nhóm của Trương V C(B) tại khu đất trống cặp nhà số 46, Ấp Đ, xã B vận chuyển chất lên xe ô tô tải.

Tang vật, đồ vật thu giữ: 237 bao đường cát, loại 50kg/bao, bao bì in nhãn hiệu “ĐƯỜNG CÁT MST” của Công ty TNHH MTV XNK TMTH L, địa chỉ: Ấp A, xã An Cư, huyện C, tỉnh Tiền Giang; 10 thùng bia SPECIAL; 02 xe ô tô và các giấy tờ kèm theo (01 ô tô tải biển kiểm soát 62C- xxxx tên chủ sỡ hữu Đặng Thị Minh Tr, 01 xe ô tô tải biển kiểm soát 63H- xxxxx tên chủ sỡ hữu Nguyễn Thị Thu Hai); 02 Hoá đơn bán hàng ký hiệu A1, A2; của Nguyễn V S 01 điện thoại di động hiệu Itel màu Đ, gắn sim 0344361743; của Nguyễn V M 01 xe mô tô không gắn biển kiểm soát (62U1- xxxxx), có số khung RLHJA3908HY467881, số máy JA39E0443043, 01 căn cước công dân, 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 gắn sim 087818xxxx; của Nguyễn Tr S 01 xe mô tô biển kiểm soát 62N1-xxxx, 01 chứng minh nhân dân, 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu trắng, gắn sim 096183xxxxx, 01 giấy phép lái xe hạng A1; của Đào Minh Hân H 01 xe mô tô biển kiểm soát 60C1-xxxx và giấy chứng nhận đăng ký, 01 chứng minh nhân dân; của Nguyễn V N 02 điện thoại di động (01 hiệu Nokia 105 màu Đ; 01 hiệu Iphone7 gắn sim 079599xxxx), 01 quyển vở 200 trang có ghi chữ, 01 Camera hành trình gắn thẻ nhớ thu giữ trên xe ô tô 63H-xxxxx; của Phan Lê Bảo T2 01 điện thoại di động hiệu Oppo A54 màu xanh gắn sim 032605xxxx và 090816xxxx, 01 sổ tay màu đỏ có ghi chữ, 01 giấy đăng kiểm xe ô tô 62C-xxxx, 01 giấy đăng ký xe ô tô 62C-xxxx ( bản photo), 01 giấy phép lái xe, 01 chứng minh nhân dân; của Lê Minh Tr 01 điện thoại di động hiệu Oppo F7 màu đỏ gắn sim 097143xxxx; của Trần V Gấu 01 điện thoại di động hiệu Philips màu Đ gắn sim 084803xxxx; của Trương Quang N 01 bao đường cát nhãn hiệu “Đường cát MST”, loại 50 kg/bao, 01 bao đường cát nhãn hiệu “PURE REFINED SUGAR”, loại 50/bao, 01 bao bì không chứa đường nhãn hiệu “SUPREME REFINED SUGER”, 05 bao bì không chứa đường nhãn hiệu “Đường cát MST”. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Kiến Tường đã trả các tài sản, đồ vật không liên quan. Hiện còn tạm giữ: 237 bao đường cát, loại 50kg/bao, bao bì in nhãn hiệu “ĐƯỜNG CÁT MST” của Công ty TNHH MTV XNK TMTH L, địa chỉ: Ấp A, xã An Cư, huyện C, tỉnh Tiền Giang; 10 thùng bia SPECIAL; 02 Hoá đơn bán hàng.

Tại Bản kết L định giá tài sản số: 335/KL-HĐĐGTS ngày 20/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Long An xác định: 237 bao đường cát có giá trị 225.150.000 đồng, 10 thùng bia SPECIAL có giá trị 1.900.000 đồng. Tổng giá trị là 227.050.000 đồng chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng.

Tại Bản kết L giám định số: 111/2021/KLĐG ngày 19/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An kết L:

Chữ viết bắt đầu “A . Minh…” và kết thúc “…2021” bắng bút bic màu xanh ở mục “Ghi chú”; chữa viết “trang” và “Võ Thùy Tr” bằng bút bic màu xanh ở mục “Người bán hàng”, trên tờ “Hóa đơn” (ký hiệu A1); chữ viết bắt đầu “A . Minh…” và kết thúc “… 2021” bằng bút bic màu xanh, chữ viết “Hóa đơn GTGT Gởi sau khi bên mua chuyển khoản thanh toán xong” bằng bút bic màu xanh ở mục “Ghu chú”, trên tờ “Hóa đơn” (ký hiệu A2) với: Chữ viết bắt đầu “Hồ Hoàng L…” và kết thúc “… Hồ Hoàng L” bằng bút bic màu xanh trên tờ “Bản khai nhân khẩu” (ký hiệu M1), chữ viết bắt đầu “Cộng hòa…” và kết thúc “… Hồ Hoàng L” bằng bút bic màu xanh trên tờ “Bản tự khai” (ký kiệu M2) và tờ “Bản cam kết” (ký hiệu M3) là do cùng một người viết ra.

Chữ viết “Võ Thùy Tr” bằng bút bic màu xanh, ở mục “Người bán hàng” trên tờ “Hóa đơn” (ký hiệu A2) với: Chữ viết bắt đầu “Hồ Hoàng L…” và kết thúc “… Hồ Hoàng L” bằng bút bic màu xanh trên tờ “Bản khai nhân khẩu” (ký hiệu M1), chữ viết bắt đầu “Cộng hòa…” và kết thúc “… Hồ Hoàng L” bằng bút bic màu xanh trên tờ “Bản tự khai” (ký hiệu M2) và tờ “Bản cam kết” (ký hiệu M3) là không phải do cùng một người viết ra.

Hồ Hoàng L thừa nhận: Sáng ngày 22/11/2021 tại khu vực Ngã tư B, L gặp người đàn ông không rõ họ tên và địa chỉ kêu bán đường cát từ Campuchia, bao chuyển giao qua Việt Nam, với giá 18.000 đồng/kg, L đặt mua 180 bao, loại 50kg/bao (9.000 kg) và 10 thùng bia SPECIAL, hẹn khoảng 22-23 giờ cùng ngày cho người giao lên lộ tuần tra biên giới thuộc Ấp O, xã B. Trước đó khoảng ngày 18/11/2021 L cũng mua đường cát từ Campuchia của một người khác không rõ họ tên địa chỉ 60 bao đường cát, loại 50kg/bao, bao bì cũng in nhãn hiệu như trên về bán lại cho Võ Thùy Tr (N) giá 16.000 đồng/kg, để tại bãi đất trống cách cầu số 3 là 50 mét, cách đường biên giới hiện trạng giữa Việt Nam - Campuchia là 20 mét, thuộc ấp O, xã B nhưng chưa lấy tiền, do Tr chỉ bán được 03 bao, còn lại 57 bao Tr kêu bán lại cho L. Sau đó, trong ngày 22/11/2021 L đi công chuyện ở tỉnh Tiền Giang gặp kêu Trương Quang N, sinh năm: 1982, hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã Hậu Thành, huyện C, tỉnh Tiền Giang là Phó giám đốc CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN XUẤT NHẬP KHẨU - TMTH MỸ LINH (gọi tắc là Công ty L), địa chỉ: Ấp A, xã An Cư, huyện C, tỉnh Tiền Giang. Do Nguyễn Thị Thu Hai, sinh năm: 1980 (vợ của N) làm Giám đốc, kêu bán 12 tấn đường (12.000 kg), loại 50kg/bao, với giá 19.200 đồng/kg, khi nào giao đường đến Công ty L mới trả tiền, N đồng ý hẹn tối cho xe đến nhận đường tại khu vực xã B, thị xã Kiến Tường. Sau đó đêm 22/11/2021 N giao cho tài xế Phan Lê Bảo T2 lái xe ô tô tải biển kiểm soát 62C-xxxx, Nguyễn V N lái xe ô tô tải biển kiểm soát 63H- xxxxx và cho số điện thoại 0911353614 của L để liên hệ nhận đường. Còn đối với bao bì đường cát mua từ Campuchia có chữ nhãn hiệu của Công ty L thì L không biết từ đâu mà người bán có được.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Hồ Hoàng L về tội “Buôn lậu” theo quy định tại khoản 1 Điều 188 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa qua phần thẩm tra các chứng cứ Kiểm sát viên phát biểu quan điểm kết L về vụ án và đề nghị xử lý như sau:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hồ Hoàng L đã phạm tội “Buôn lậu”.

Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 188; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 50; Điều 35 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Hồ Hoàng L từ 60.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự xử lý như sau:

Tịch thu sung ngân sách nhà nước của bị cáo Hồ Hoàng L 237 bao đường cát, loại 50kg/bao, bao bì in nhãn hiệu “ĐƯỜNG CÁT MST” của Công ty TNHH MTV XNK TMTH L, địa chỉ: Ấp A, xã An Cư, huyện C, tỉnh Tiền Giang; 10 thùng bia SPECIAL.

Tịch thu lưu hồ sơ vụ án 02 hóa đơn bán hàng.

Các vật chứng này Chi cục thi hành án dân sự thị xã Kiến Tường đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/10/2022.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 188 của Bộ luật hình sự thì hành vi phạm tội của bị cáo L còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Nhưng xét thấy bị cáo L không làm nghề hoặc công việc quan trọng và đề nghị phạt tiền là hình phạt chính nên miễn phạt bổ sung cho bị cáo.

Về án phí: Theo quy định buộc bị cáo L phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước.

Đối với Võ Thùy Tr (N), vào ngày 18/11/2021 có mua của bị cáo Hồ Hoàng L 60 bao đường cát, loại 50kg/bao, bao bì in nhãn hiệu “ĐƯỜNG CÁT MST” của Công ty L để bán lại kiếm lời nhưng do bán chậm, chỉ mới bán được 03 bao, còn lại 57 bao vào đêm 22/11/2021 rạng sáng 23/11/2021 Tr kêu bóc vát đem lên cầu số 3 bán lại cho bị cáo L thì bị phát hiện bắt giữ. Khi Tr mua đường, bị cáo L không nói rõ nguồn gốc, bao bì nhãn hiệu của Việt Nam, địa điểm giao trên lãnh thổ Việt Nam nên Tr không biết đường cát trên là nhập lậu từ Campuchia, do đó không đủ cơ sở đề cập xem xét xử lý đối với Tr. Đối với Trương Quang N mua đường của bị cáo Hồ Hoàng L lần đầu nhưng không biết số đường cát trên là do bị cáo L nhập lậu từ Campuchia về và bị cáo L cũng không nói cho biết, còn số bao bì nhãn hiệu tên Công ty L, N không biết từ đâu mà có được nên không có cơ sở xem xét trách nhiệm đối với N. Đối với 02 tài xế là Phan Lê Bảo T2 lái xe ôtô tải biển kiểm soát: 62C-xxxx và Nguyễn V N lái xe ô tô tải biển kiểm soát 63H-xxxxx chở đường theo phân công của N, nhưng Thắng và Nhàn không biết số đường cát trên là do nhập lậu mà có, nên không xem xét trách nhiệm liên quan đối với Thắng và Nhàn.

Đối với 03 nhóm bóc vác gồm: Nhóm bốc vác từ khu đất trống phía bên phải đường tuần tra biên giới đến lan can cầu số 3 thuộc Ấp O, xã B, thị xã Kiến Tường gồm: Nguyễn V S, Nguyễn V B, Trần Công C2, Nguyễn V T, Đoàn Hữu Th, Lê Minh Tr, Trần V Gấu, Trương V D; Nhóm dùng xe mô tô vận chuyển từ cầu số 3 thuộc Ấp O, xã B, thị xã Kiến Tường đến khu đất trống cặp nhà số 46, Ấp Đ, xã B gồm: Trần V M, Đào Minh Hân Q, Nguyễn Tr S và 03 người tên V, Đ và N chưa xác định được họ tên và địa chỉ; Nhóm bóc vác tại khu đất trống cặp nhà số 46, Ấp Đ, xã B chất đường lên xe ô tô tải gồm: Trương V Ch, Đỗ V C1, Trương V T2, Trương Tấn P là những người làm thuê vận chuyển, bốc vác đường cát trên lãnh thổ Việt Nam, các bao đường cát có bao bì in chữ của Việt Nam, do đó những người này không biết là hàng hoá nhập lậu, nên không xem xét về vai trò đồng phạm với bị can L, cũng như về hành vi vận chuyển hàng cấm.

Đối với ông Nguyễn V B là chủ nhà số 46 Ấp Đ, xã B. thị xã Kiến Tường nhưng không cho thuê sân bãi, không liên quan đến hàng hoá đã bị bắt nên không đề cập xem xét trách nhiệm liên quan.

Đối với người ông bán đường cho bị cáo L từ campuchia chuyển sang Việt Nam nhưng không biết rõ thông tin nên không thể truy tìm xử lý được.

Về lời trình bày của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng vắng mặt nên không có lời trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, Quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố được tiến hành theo trình tự thủ tục, các bị cáo và người liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, các hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Hồ Hoàng L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát đã nêu. Bị cáo thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nên Viện kiểm sát truy tố bị cáo ra tòa để xét xử về tội “Buôn lậu” là đúng người, đúng tội không oan. Lời khai nhận tội của bị cáo L tại phiên tòa hôm nay, được đối chiếu với biên bản bắt giữ, biên bản thu giữ đồ vật, biên bản khám nghiệm hiện trường, bản ảnh hiện trường và các tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa là phù hợp.

[3] Bị cáo L khai nhận vì muốn có thu nhập nhiều hơn nên vào đêm 22 rạng sáng ngày 23/11/2021 mua 237 bao đường cát, loại 50kg/bao và 10 thùng bia SPECIAL nhập lậu từ Campuchia chuyển vào Việt Nam, thì bị lực lượng Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu Công an tỉnh Long An phối hợp với Công an thị xã Kiến Tường, Công an huyện Mộc Hóa và Đồn Biên phòng cửa khẩu quốc tế B bắt giữ.

[4] Như vậy, đã có đầy đủ căn cứ pháp lý để kết L rằng hành vi phạm tội của bị cáo L đủ yếu tố cấu thành tội “Buôn lậu” nên Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An truy tố bị cáo L ra Tòa để xét xử theo quy định tại khoản 1 Điều 188 của Bộ luật hình sự là có căn cứ đúng quy định của pháp luật.

[5] Hành vi phạm tội của bị cáo L là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến trật tự về quản lý kinh tế. Việc buôn lậu sẽ làm xáo trộn nền kinh tế thị trường trong nước, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế của địa phương. Hành vi phạm tội của bị cáo L đã bị pháp luật nghiêm cấm. Do đó, cần phải xử lý bằng pháp luật hình sự để có một hình phạt tương xứng với hành vi mà bị cáo L gây ra mới giáo dục bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội sau này và có tác dụng răn đe phòng ngừa chung.

[6] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét đến tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để có một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự mà có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Ngoài ra bị cáo chưa tiền án, tiền sự, gia đình có công với cách mạng, đây là tình tiết giảm nhẹ khác được quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Mặc khác tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo L đã thực hiện là ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo L thuộc lĩnh vực trật tự quản lý kinh tế, bị cáo L có tài sản nên đủ khả năng thi hành hình phạt tiền là hình phạt chính. Do đó, đối với bị cáo L không cần áp dụng hình phạt tù mà chỉ cần áp dụng hình phạt chính là phạt tiền là phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo L gây ra và cũng có tác giáo dục bị cáo, răn đe phòng ngừa chung.

[7] Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự xử lý vật chứng như sau:

Tịch thu sung ngân sách nhà nước của bị cáo Hồ Hoàng L 237 bao đường cát, loại 50kg/bao và 10 thùng bia SPECIAL.

Tịch thư lưu hồ sơ vụ án 02 hóa đơn bán hàng (các vật chứng này Chi cục thi hành án dân sự thị xã Kiến Tường đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/10/2022).

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 188 của Bộ luật hình sự thì hành vi phạm tội của bị cáo L còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Nhưng xét thấy bị cáo L không làm nghề hoặc công việc quan trọng và đề nghị phạt tiền là hình phạt chính nên miễn phạt bổ sung cho bị cáo là phù hợp.

[9] Đối với bà Võ Thùy Tr (N), vào ngày 18/11/2021 có mua của bị cáo Hồ Hoàng L 60 bao đường cát, loại 50kg/bao, bao bì in nhãn hiệu “ĐƯỜNG CÁT MST” của Công ty L để bán lại kiếm lời nhưng do bán chậm, chỉ mới bán được 03 bao, còn lại 57 bao vào đêm 22/11/2021 rạng sáng 23/11/2021 Tr kêu bóc vát đem lên cầu số 3 bán lại cho L thì bị phát hiện bắt giữ. Khi Tr mua đường bị cáo L không nói rõ nguồn gốc, bao bì nhãn hiệu của Việt Nam, địa điểm giao trên lãnh thổ Việt Nam nên Tr không biết đường cát trên là nhập lậu từ Campuchia, do đó không đủ cơ sở đề cập xem xét xử lý đối với bà Tr là phù hợp.

[10] Đối với ông Trương Quang N mua đường của bị cáo Hồ Hoàng L lần đầu không biết số đường cát trên là do bị cáo L nhập lậu từ Campuchia về và bị cáo L cũng không nói cho biết, còn số bao bì nhãn hiệu tên Công ty L, N không biết từ đâu mà có được nên không có cơ sở xem xét trách nhiệm đối với ông N. Đối với 02 tài xế là ông Phan Lê Bảo T2 lái xe ôtô tải biển kiểm soát: 62C-xxxx và ông Nguyễn V N lái xe ô tô tải biển kiểm soát 63H-xxxxx chở đường theo phân công của ông N, nhưng ông Thắng và ông Nhàn không biết số đường cát trên là do nhập lậu mà có, nên không xem xét trách nhiệm liên quan đối với ông Thắng và ông Nhàn là phù hợp.

[11] Đối với 03 nhóm bóc vác gồm: Nhóm bốc vác từ khu đất trống phía bên phải đường tuần tra biên giới đến lan can cầu số 3 thuộc Ấp O, xã B, thị xã Kiến Tường gồm: Nguyễn V S, Nguyễn V B, Trần Công C2, Nguyễn V T, Đoàn Hữu Th, Lê Minh Tr, Trần V Gấu, Trương V D; Nhóm dùng xe mô tô vận chuyển từ cầu số 3 thuộc Ấp O, xã B, thị xã Kiến Tường đến khu đất trống cặp nhà số 46, Ấp Đ, xã B gồm: Trần V M, Đào Minh Hân Q, Nguyễn Tr S và 03 người tên V, Đ và N chưa xác định được họ tên và địa chỉ; Nhóm bóc vác tại khu đất trống cặp nhà số 46, Ấp Đ, xã B chất đường lên xe ô tô tải gồm: Trương V Ch, Đỗ V C1, Trương V T2, Trương Tấn P là những người làm thuê vận chuyển, bốc vác đường cát trên lãnh thổ Việt Nam, các bao đường cát có bao bì in chữ của Việt Nam, do đó những người này không biết là hàng hoá nhập lậu, nên không xem xét về vai trò đồng phạm với bị can L, cũng như về hành vi vận chuyển hàng cấm.

[12] Đối với ông Nguyễn V B là chủ nhà số 46 Ấp Đ, xã B. thị xã Kiến Tường nhưng không cho thuê sân bãi, không liên quan đến hàng hoá đã bị bắt nên không đề cập xem xét trách nhiệm liên quan là phù hợp.

[13]Đối với người ông bán đường cho L từ campuchia chuyển sang Việt Nam nhưng không biết rõ thông tin nên không thể truy tìm xử lý được.

[14] Từ những nhận xét nêu trên cũng như qua tranh L tại phiên tòa. Xét thấy, đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là có căn cứ đúng pháp luật nên chấp nhận.

[15] Về án phí: Theo quy định của pháp luật buộc bị cáo L phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Hồ Hoàng L đã phạm tội “Buôn lậu”.

Căn cứ khoản 1 Điều 188; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 35 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Hồ Loàng L 60.000.000 đồng (sáu mươi triệu đồng).

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự xử lý vật chứng như sau:

Tịch thu sung ngân sách nhà nước của bị cáo Hồ Hoàng L 237 bao đường cát, loại 50kg/bao và 10 thùng bia SPECIAL.

Tịch thu lưu hồ sơ vụ án 02 hóa đơn bán hàng (các vật chứng này Chi cục thi hành án dân sự thị xã Kiến Tường đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/10/2022).

Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 3, khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30 tháng 12 năm 2016. Buộc bị cáo Hồ Hoàng L phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo Hồ Hoàng L báo cho biết được quyền kháng cáo bản án trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội buôn lậu số 28/2022/HS-ST

Số hiệu:28/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị Xã Kiến Tường - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về