Bản án về tội buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh số 263/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 263/2022/HS-PT NGÀY 15/07/2022 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG GIẢ LÀ THUỐC CHỮA BỆNH

Ngày 15 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 166/2022/TLPT-HS ngày 09 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo Trương Thanh T và đồng phạm về tội “Buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh”. Do có kháng cáo của bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2022/HS-ST ngày 30/3/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1836/2022/QĐXXPT-HS ngày 20 tháng 6 năm 2022.

* Bị cáo có kháng cáo:

1. Trương Thanh T. Tên gọi khác: N. Sinh ngày 02/7/1992, tại huyện C, tỉnh Gia Lai. Nơi cư trú: huyện C, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Thanh T, sinh năm 1962 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1963; có vợ Đặng Thị Mỹ N, có 02 con sinh năm 2013 và sinh năm 2020; tiền án: Không, tiền sự: Không; ngày 25/02/2021 bị bắt tạm giam cho đến nay, bị cáo hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Gia Lai; có mặt.

2. Hoàng H. Sinh ngày 14/5/1987, tại tỉnh Phú Thọ; Nơi cư trú: thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Cao T, sinh năm 1940 và bà Hoàng Thị T (đã chết); có vợ Lê Thị L (đã ly hôn), có 01 sinh năm 2016; tiền án: Không; tiền sự: Không; ngày 25/02/2021 bị bắt tạm giam cho đến nay, bị cáo hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Gia Lai; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Trương Thanh T: Ông Đỗ Trúc L là luật sư thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Hoàng H: Ông Mai Văn T là luật sư thuộc Đoàn luật sư tỉnh Gia Lai; có mặt.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Chị Đặng Thị Mỹ N, sinh năm 1994 Trú tại: huyện C, tỉnh Gia Lai; có mặt.

* Người làm chứng:

1. Anh Võ Việt T Trú tại: thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.

2. Chị Vy Thúy H, sinh năm 1988; vắng mặt.

Trú tại: tỉnh Quảng Ninh.

3. Chị Hồ Bích H, sinh năm 1974; vắng mặt.

Trú tại: tỉnh Quảng Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

a. Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng đầu năm 2017, Trương Thanh T quen biết với Hoàng H, cả hai đều mở các cửa hàng trên địa bàn thành phố P để buôn bán các mặt hàng thuốc và dụng cụ tăng cường sức khỏe sinh lý cho nam giới. Đến tháng 4/2019, giữa T và H có thỏa thuận với nhau là mỗi bên góp vốn 50% để tìm, mua các mặt hàng thuốc tăng cường khả năng sinh lý như: Maxman, Tengsu, Ngựa Thái, Viagra về bán lại kiếm lời, lợi nhuận chia đều.

Sau khi thỏa thuận, T đã lên mạng Internet tìm được một trang Web chuyên cung cấp các mặt hàng thuốc tăng cường khả năng sinh lý cho nam giới (không nhớ địa chỉ tên trang Web). T vào trang Web này thì được hướng dẫn kết nối, cài đặt ứng dụng “Wechat” để nhắn tin, giao dịch. T đã sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7, gắn sim có số thuê bao là 0965000553, cài đặt ứng dụng Wechat, đăng ký tên giao dịch là “mỹ ngọc” để nhắn với đối tác là 01 người đàn ông Trung Quốc (không biết họ tên), tên giao dịch là “Alive and safe for 2020”, có nhà máy sản xuất thuốc tăng cường khả năng sinh lý cho nam giới tại Quảng Châu, Trung Quốc (không rõ địa chỉ cụ thể), chuyên sản xuất các mặt hàng thuốc sinh lý như: Maxman, Tengsu, Ngựa Thái, Viagra. T đặt vấn đề muốn mua các mặt hàng như trên thì được hướng dẫn phải thông qua 01 đơn vị vận chuyển. Người đàn ông Trung Quốc đã giới thiệu cho T đơn vị vận chuyển là Công ty TNHH Thương mại dịch vụ V (viết tắt là Công ty V), địa chỉ: thành phố Hồ Chí Minh; kho chi nhánh tại địa chỉ: thành phố Hà Nội và liên hệ trực tiếp với người tên là A T, có tài khoản “Wechat” là “Ticung” A T, là nhân viên của của đơn vị vận chuyển hàng hóa từ Trung Quốc về Việt Nam (đơn vị đối tác với Công ty V). T đã cung cấp thông tin cá nhân, số điện thoại của mình cho “Ticung” và được “Ticung” đăng ký 01 tài khoản có tên giao dịch là “MyngocGL”, số điện thoại 0965000553, tên T trên trang Web “Vominhthien.com” của Công ty V.

Việc giao dịch, thống nhất số lượng, chứng loại, giá cả, xác nhận đã chuyển tiền, nhận tiền, xác nhận chuyển hàng, nhận hàng, đóng gói và các nội dung liên quan đến việc mua các loại thuốc tăng cường khả năng sinh lý được T nhắn tin với chủ hàng người Trung Quốc qua ứng dụng “Wechat”, tên giao dịch là “mỹ ngọc” được cài đặt trên điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7, gắn sim có số thuê bao là 0965000553 của T.

Sau khi thống nhất, chốt đơn hàng, số tiền thanh toán (bằng tiền Nhân dân tệ) với chủ hàng người Trung Quốc thì người này nói T chuyển tiền cho Công ty vận chuyển V. Sau đó, T nhắn tin với “Ticung” để được báo giá quy đổi số tiền từ Nhân dân tệ ra tiền đồng Việt Nam, “Ticung” yêu cầu T chuyển tiền vào tài khoản số 0071000877538 của Võ Việt T (sinh ngày: 28/9/1995, địa chỉ: tỉnh Đắk Lắk - Giám đốc Công ty V). T nói lại đơn hàng, số tiền cần chuyển cho Hoàng H biết. Sau khi H đồng ý, T đưa số tài khoản của Công ty V để H chuyển tiền. Hoàng H sử dụng số tài khoản 0291000333573 mở tại ngân hàng V Gia Lai chuyển tiền cho Công ty vận chuyển V theo số tài khoản 0071000877538 của Võ Việt T với nội dung chuyển tiền là: “My ngoc GL ck”, “Hoàng H.my ngoc gl ck”.... Theo yêu cầu của A T, T chuyển tiền của “MyngocGL” vào tài khoản số 6226631300680904 của một người Trung Quốc. Để chuyển tiền vào tài khoản trên, T thông qua dịch vụ chuyển tiền tư nhân tại Cửa khẩu M, tỉnh Quảng Ninh của Vy Thúy H (sinh ngày: 13/10/1988, địa chỉ: thành phố M, tỉnh Quảng Ninh). T đã chuyển tiền Việt Nam từ tài khoản của mình cho Vy Thúy H để H chuyển tiền nhân dân tệ đến tài khoản số 6226631300680904.

Sau khi chuyển tiền cho Võ Việt T thì Hoàng H chụp ảnh màn hình điện thoại thể hiện giao dịch chuyển tiền thành công, gửi qua phần mềm Zalo báo cho T. T sẽ gửi lại hình ảnh này để báo cho “Ticung” biết. H chuyển tiền vào tài khoản số 6226631300680904 xong sẽ chụp ảnh thể hiện giao dịch thành công và gửi hình qua ứng dụng Zalo để báo cho T biết. T sẽ gửi lại hình ảnh này qua Wechat cho “Ticung”. “Ticung” tiếp tục gửi hình ảnh chuyển tiền thành công này qua phần mềm “Wechat” báo cho T biết. T nhắn tin với chủ hàng người Trung Quốc, hỏi đã nhận được tiền chưa và được chủ hàng người Trung Quốc nhắn tin lại để xác nhận. Quá trình gửi hàng, “Ticung” đều nhắn tin, gửi hình ảnh kiện hàng báo cho T biết. Việc “Ticung” nhận hàng, vận chuyển hàng về Việt Nam như thế nào thì T, H, T không biết. Khi hàng về tới kho của Công ty V thì Công ty sẽ phân loại tên trên kiện hàng, nhập thông tin các kiện hàng, mã khách hàng lên trang Web của Công ty để khách hàng có thể kiểm tra. Đối với hàng hóa của T, nhân viên của Công ty V sẽ gọi điện thoại vào số 0965000553 của T để xác nhận đúng là hàng của “MyngocGL” Sau đó, Công ty in thông tin lên giấy để dán lên từng thùng hàng, nội dung người nhận: anh T - 0965000553, địa chỉ: Gia Lai, người gửi V và gửi theo nhà xe T, địa chỉ: 132 Phan Đình Phùng, thành phố P, tỉnh Gia Lai để vận chuyển về Gia Lai giao theo yêu cầu của T.

Vào ngày 03/02/2020, T đã giao dịch, đặt mua 10.000 hộp thuốc loại Ngựa thái với giá là 7,2 Nhân dân tệ/hộp, tổng cộng 72.000 Nhân dân tệ (RMB) của chủ hàng người Trung Quốc. Ngày 18/02/2020, Hoàng H đã chuyển số tiền 240.000.000 đồng, nội dung: “My ngoc ck” cho Võ Việt T. Sau đó, T đã chuyển tiền cho Vy Thúy H, H đã chuyển số tiền 72.000 Nhân dân tệ vào tài khoản số 6226631300680904. Tuy nhiên, chủ hàng người Trung Quốc chỉ gửi được số lượng 3000 hộp thuốc. Sau khi nhận hàng, kiểm đếm thì T và H chỉ nhận được thực tế là 2850 hộp Ngựa thái. Trong thời gian này, T và người Trung Quốc tiếp tục nhắn tin thỏa thuận số lượng, giá cả đặt mua thuốc Viagra 100mg (V100).

Ngày 28/02/2020, chủ hàng người Trung Quốc nói sẽ gửi cho T 5000 vỉ Viagra, sau khi thỏa thuận đã chốt giá là 04 Nhân dân tệ/01 vỉ, tổng cộng là 20.000 Nhân dân tệ. Ngày 01/3/2020, chủ hàng người Trung Quốc nhắn tin báo T biết là đã gửi 5000 vỉ thuốc Viagra (V100) và nói T liên hệ Công ty vận chuyển V. Giữa T và người Trung Quốc cũng có sự thỏa thuận về việc đặt mua thêm số lượng thuốc Maxman, Tengsu và giá cả.

Ngày 02/3/2020, T đã giao dịch, thỏa thuận đặt mua 2400 hộp Maxman với giá là 7,6 Nhân dân tệ/01 hộp, tổng cộng là 18.240 Nhân dân tệ. Chủ hàng người Trung Quốc nói T chuyển 10.000 Nhân dân tệ. Ngày 03/3/2020, Hoàng H đã chuyển số tiền 40.000.000 đồng, nội dung: “my ngoc gia lai” cho Võ Việt T, T đã chuyển số tiền này cho Vy Thúy H, H đã chuyển số tiền 10.000 Nhân dân tệ vào tài khoản số 6226631300680904. Ngày 12/3/2020, giữa T và chủ hàng người Trung Quốc xác nhận số lượng hàng hóa đã đặt như trên và số tiền T còn dư là 23.240 Nhân dân tệ. T đã thỏa thuận, đặt mua thêm 10.000 hộp Tengsu với giá là 7,8 tệ/01 hộp, tổng cộng là 78.000 Nhân dân tệ. Xác định số tiền T còn phải chuyển thêm là 54.760 nhân dân tệ. Ngày 13/3/2020, Hoàng H đã chuyển số tiền 200.000.000 đồng, nội dung: “Hoàng H.my ngoc gl ck” cho Võ Việt T, T đã chuyển tiền cho Vy Thúy H, H đã chuyển số tiền 10.000 Nhân dân tệ vào tài khoản số 6226631300680904. Sau đó, T và chủ hàng người Trung Quốc đã xác nhận gửi tiền và nhận được số tiền 54.760 Nhân dân tệ.

Khoảng 17 giờ ngày 15/3/2020, T đang ở kho của Công ty V tại Hà Nội thì có 01 người xe ôm (không biết tên) chở 02 kiện hàng đến, kiểm tra hàng, T thấy có tên “MyngocGL” là hàng của khách quen của Công ty V. Chiều ngày 16/3/2020, “Ticung” đã báo cho T biết đã gửi 02 kiện hàng về. Sau khi nhận được 02 kiện hàng, T gọi điện cho T để xác nhận và hỏi địa chỉ gửi về Gia Lai. T nói T gửi hàng về nhà xe T Gia Lai. Sau đó, Công ty V đã in thông tin người nhận: anh T - 0965000553, địa chỉ: Gia Lai, người gửi V dán lên 02 kiện hàng và chuyển đến điểm tập kết hàng hóa của nhà xe T (địa chỉ: thành phố Hà Nội) để chuyển về Gia Lai giao cho T. Khoảng 09 giờ ngày 18/3/2020, T gọi điện thoại cho Hoàng H nói ra nhà xe T để nhận hàng. T điều khiển xe ô tô hiệu Kia Carens, BKS 81A - 166.37, H điều khiển xe máy hiệu Honda Wave, BKS 19L6 - 3308 đến nhà xe T, địa chỉ: thành phố P, tỉnh Gia Lai. Sau khi đọc thông tin cá nhân tên: T, số điện thoại 0965000553 thì được nhà xe T giao 02 kiện hàng. T và H cùng nhau xếp lên xe ô tô và xe máy mỗi bên 01 kiện hàng thì bị lực lượng chức năng kiểm tra, bắt giữ. Quá trình kiểm tra thu giữ 02 kiện hàng (gồm 03 thùng), xác định số lượng hàng hóa gồm: 5.000 hộp giấy mang nhãn hiệu Viagra; 1.560 vỉ (10 viên/01vỉ) có chữ nước ngoài ghi trên vỉ, trên mỗi viên thuốc có ký hiệu CPM và 1.000 tờ giấy ghi chữ nước ngoài đựng trong thùng các ton; 600 hộp kim loại màu đen ghi nhãn hiệu Maxman.

Căn cứ thông tin khai thác từ T và H, ngày 18/3/2020, Cục Cảnh sát Kinh tế Bộ Công an phối hợp với Cục Quản lý thị trường Hà Nội (Đội 15) tiến hành kiểm tra, tạm giữ 02 kiện hàng chứa 900 vỏ hộp kim loại màu đen ghi nhãn hiệu Maxman tại điểm tập kết hàng hóa của nhà xe T, địa chỉ: thành phố Hà Nội. Khoảng 21 giờ ngày 28/3/2020, có 01 xe ô tô tải (không xác định biển kiểm soát) chở 10 thùng hàng, bên ngoài có bọc kín bằng bao tải màu xanh trên các thùng hàng có ghi “HN-MyngocGL” đến kho của Công ty V tại Hà Nội. T đã tiếp nhận 10 thùng hàng, xác định hàng hóa của “MyngocGL” nên đã báo cho lực lượng chức năng. Khoảng 08 giờ ngày 29/3/2020, Cục Cảnh sát Kinh tế Bộ Công an phối hợp với Cục Quản lý thị trường Hà Nội (Đội 15) tiến hành kiểm tra, tạm giữ các thùng hàng với số lượng hàng hóa gồm: 5.000 vỉ Viagra P 100mg (04 viên/01 vỉ); 4.900 vỏ hộp loại nhỏ bằng giấy có ghi chữ Japan Tengsu; 315 vỏ hộp loại to bằng giấy có ghi chữ Japan Tengsu; 2.966 hộp Japan Tengsu 0,5g đựng trong hộp nhựa; 80 tờ tem phát quang, trên tem có ghi chữ HONGKONG (63tem/01 tờ).

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Gia Lai đã tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ, cụ thể:

Kết quả kiểm tra điện thoại của Trương Thanh T xác định giữa T và chủ hàng người Trung Quốc có tên giao dịch “Wechat”’ là “Alive and safe for 2020” đã nhắn tin, giao dịch đặt mua các loại thuốc tăng cường khả năng sinh lý cho nam giới trong đó có 5.000 vỉ thuốc Viagra 100mg, xác nhận việc chuyển tiền, nhận tiền, chuyển hàng, nhận hàng. Điện thoại của Hoàng H xác định nội dung liên quan đến việc quảng cáo, nhắn tin buôn bán các loại thuốc sinh lý như: Ngựa Thái, Maxman, Viagra 100mg, Tengsu và hình ảnh giao dịch chuyển khoản thành công cho Võ Việt T gửi báo cho Trương Thanh T.

Sản phẩm Viagra do Công ty P PRODUCTS INC., địa chỉ: United States of America (nước Mỹ) là chủ sở hữu. Công ty TNHH Dịch vụ Đại diện sở hữu công nghiệp C, MST: 0303864873, địa chỉ: thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị duy nhất được ủy quyền đại diện của Công ty P PRODUCTS INC tại Việt Nam; được phép thay mặt cho Công ty P PRODUCTS INC về mặt pháp lý tại Việt Nam, thực hiện các công việc bảo vệ nhãn hàng, quản lý và giữ gìn thương hiệu, chống hàng giả, hàng nhái... Sản phẩm Viagra mà Công ty TNHH Dịch vụ Đại diện sở hữu công nghiệp C được ủy quyền đại diện của Công ty P PRODUCTS INC là thuốc chữa bệnh dùng để chữa chứng rối loạn chức năng cương cứng cho nam giới. Công ty TNHH Dịch vụ Đại diện sở hữu công nghiệp C xác định: Hộp giấy mang nhãn hiệu Viagra và vỉ thuốc Viagra 100mg do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Gia Lai thu giữ không phải là sản phẩm thuốc Viagra chính hãng, sản xuất và lưu thông trên thị trường. Sản phẩm thuốc Viagra chính hãng của Công ty không phân phối trên thị trường với hình thức vỏ hộp riêng và vỉ thuốc riêng.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Gia Lai đã trưng cầu giám định đối với loại thuốc Viagra, Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh đã có các Kết luận giám định sau:

- Kết luận giám định số 3356/C09B, ngày 18/08/2020, kết luận: “Thuốc Viagra của mẫu cần giám định và mẫu so sánh do Công ty TNHH Dịch vụ Đại diện sở hữu công nghiệp C cung cấp đều có chứa thành phần hoạt chất Sildenafil. Thành phần Sildenafil chứa trong mẫu giám định có hàm lượng thấp hơn rất nhiều so với hàm lượng Sildenafil chứa trong mẫu thuốc Viagra là mẫu so sánh”.

- Kết luận giám định số 3356/1/C09B, ngày 06/08/2020, kết luận: “Các lớp in trên 250 (hai trăm năm mươi) vỏ hộp thuốc nhãn hiệu Viagra 100mg ký hiệu từ A1 đến A250 so với các lớp in trên 02 (hai) mẫu so sánh ký hiệu M1, M2 là không phải in ra từ cùng một bản in”.

Kết quả trả lời của Cục quản lý Dược Bộ Y tế, Sở Y tế tỉnh Gia Lai:

- Cục quản lý Dược không có thông tin về về Giấy đăng ký lưu hành hoặc Giấy phép nhập khẩu đối với sản phẩm hộp giấy mang nhãn hiệu Viagra và vỉ thuốc Viagra 100mg do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Gia Lai thu giữ mà đã cấp Giấy đăng ký lưu hành cho các thuốc có tên gần tương tự sản phẩm có tên VIAGRA P 100mg SILDENAFIL TABLETS PM81391, cụ thể như sau:

TÊN THUỐC

SỔ ĐĂNG KÝ LƯU HÀNH

HOẠT CHẤT - HÀM LƯỢNG

DẠNG BÀO CHẾ

CƠ SỞ ĐĂNG KÝ

CƠ SỞ SẢN XUẤT

Viagra

VN-17541-13

Sildenafil (dưới dạng Sildenafil citrat) 100mg

Viên nén bao phim

P (Thailand) Ltd

P Australia Pty.,Ltd

Viagra

VN-21098-18

Sildenafil (dưới dạng Sildenafil citrat) 100mg

Viên nén bao phim

P (Thailand) Ltd

P Australia Pty.,Ltd

- Viagra là thuốc có hoạt chất chính là Sildenafil citrat hàm lượng 100mg, dạng bào chế viên nén bao phim, tuổi thọ 60 tháng, quy cách đóng gói hộp 01 vỉ x 04 viên.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Gia Lai đã yêu cầu định giá đối với giá trị của 5.000 vỉ thuốc Viagra loại 01 vỉ/04 viên chính hãng được phép mua bán lưu thông trên thị trường Việt Nam, Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Gia Lai: Giá thị trường vào thời điểm 3/2020 của 5.000 vỉ thuốc Viagra 100mg, loại 01 vỉ/ 04 viên là 4.000.000.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2022/HSST ngày 30/3/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai đã quyết định:

1. Về tội danh:

Tuyên bố các bị cáo Trương Thanh T và Hoàng H phạm tội “Buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh”.

2. Về điều luật áp dụng và hình phạt:

- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 194; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Trương Thanh T 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/02/2021.

- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 194; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Hoàng H 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/02/2021.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 5/4/2022, bị cáo Trương Thanh T và bị cáo Hoàng H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù.

Ngày 13/4/2022, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chị Đặng Thị Mỹ N kháng cáo đề nghị trả lại chiếc xe ô tô biển kiểm soát 81A-166.37 là tài sản chung của chị với bị cáo Trương Thanh T.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Các bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; người có quyền và nghĩa vụ liên quan giữ nguyên kháng cáo.

Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Tòa án sơ thẩm đã xử phạt bị cáo T 15 năm tù, bị cáo H 12 năm tù về tội Buôn bán hàng giả là đúng pháp luật; việc tịch thu xe ô tô là đúng pháp luật; các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ nhưng không có tình tiết mới, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan kháng cáo nhưng không có gì mới; đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 355 BLTTHS bác kháng cáo của các bị cáo và người liên quan giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Người bào chữa cho bị cáo Trương Thanh T trình bày: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo T đã khai nhận tội nên đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ thật thà khai báo cho bị cáo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 vì sơ thẩm chưa áp dụng, thống nhất về tội danh đối với bị cáo, đề nghị xét giảm án cho bị cáo.

Bị cáo Trương Thanh T: Thừa nhận các hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm, thống nhất với lời bào chữa của người bào chữa, đề nghị xin giảm án tù.

Người bào chữa cho bị cáo Hoàng H: Đề nghị giảm án cho bị cáo Hoàng H.

Bị cáo Hoàng H: Đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của các bị cáo T và H tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có cơ sở nhận định: Bị cáo Trương Thanh T và bị cáo Hoàng H không được cấp phép buôn bán thuốc chữa bệnh nhưng hai bị cáo đã cùng góp vốn để tìm mua các loại thuốc tăng cường khả năng sinh lý để bán lại kiếm lời. T sử dụng tài khoản “MyngocGL” số điện thoại 0965000553 để giao dịch với chủ hàng người Trung Quốc có tài khoản “Alive and safe for 2020” qua ứng dụng “wechat” thống nhất về chủng loại, số lượng hàng cần mua, số tiền thanh toán rồi nói Hoàng H chuyển khoản cho Võ Việt T giám đốc đơn vị vận chuyển là Công ty TNHH thương mại dịch vụ V. Từ ngày 03/2/2020 đến ngày 12/03/2020 T đã đặt các đơn hàng mua các loại thuốc tăng cường sinh lý cho nam giới gồm: 10.000 hộp thuốc loại Ngựa thái, 5.000 vỉ Viagra, 2.400 hộp Maxman và 10.000 hộp Tengsu cùng các vỏ hộp của các loại thuốc này; toàn bộ số hàng nêu trên đã được H chuyển khoản thanh toán xong, ngày 01/3/2020 chủ hàng người Trung Quốc đã xác nhận gửi cho T 5.000 vỉ Viagra qua tài khoản “wechat” và yêu cầu T nhận hàng từ công ty V. Ngày 18/3/2020 Trương Thanh T và Hoàng H bị bắt quả tang khi đang nhận được một phần lượng thuốc tăng cường khả năng sinh lý tại nhà xe T (Gia Lai), địa chỉ 132 Phan Đình Phùng, thành phố P, Gia Lai; căn cứ lời khai của T và H vào ngày 29/3/2020 lực lượng Quản lý thị trường thành phố Hà Nội và Cục Cảnh sát Kinh tế Bộ Công an kiểm tra, thu giữ tại kho công ty V toàn bộ lượng hàng hóa còn lại mà T và H đã chuyển tiền đặt mua của chủ hàng người Trung Quốc, trong đó có số lượng 5.000 vỉ Viagra theo kết quả giám định là thuốc giả (Kết luận số 3356/C09B, ngày 18/08/2020 của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh: “Thuốc Viagra của mẫu cần giám định và mẫu so sánh do Công ty TNHH Dịch vụ Đại diện sở hữu công nghiệp C cung cấp đều có chứa thành phần hoạt cht Sildenafil. Thành phần Sildenafil chứa trong mẫu giám định có hàm lượng thấp hơn rất nhiều so với hàm lượng Sildenafil chứa trong mẫu thuốc Viagra là mẫu so sánh”; Kết luận giám định số 3356/1/C09B, ngày 06/08/2020, kết luận: “Các lớp in trên 250 (hai trăm năm mươi) vỏ hộp thuốc nhãn hiệu Viagra 100mg ký hiệu từ A1 đến A250 so với các lớp in trên 02 (hai) mu so sánh ký hiệu M1, M2 là không phải in ra từ cùng một bản in”). Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Gia Lai: Giá thị trường vào thời điểm 3/2020 của 5.000 vỉ thuốc Viagra 100mg, loại 01 vỉ/ 04 viên là 4.000.000.000 đồng.

Tòa án sơ thẩm đã xét xử các bị cáo về tội “Buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh” với tình tiết định khung “Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá 500.000.000 đồng trở lên” quy định tại điểm a khoản 3 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ và đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù của các bị cáo Trương Thanh T và Hoàng H, thấy: Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, các bị cáo thực hiện hành vi mua bán thuốc giả thu lời, đã xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực kinh doanh hàng hóa là thuốc chữa bệnh, gây nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng và lợi ích của người tiêu dùng. Bị cáo Trương Thanh T là người trực tiếp liên hệ đặt hàng, quyết định số lượng, chủng loại thuốc, báo cho bị cáo Hoàng H biết đi giao tiền, thời điểm hàng về và cùng đi nhận hàng, bán hàng, phân chia lợi nhuận; bị cáo Hoàng H là người đi gửi tiền, cùng nhận hàng theo thông báo của T và cùng đi bán hàng, phân chia lợi nhuận. Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo T quanh co chối tội nhưng tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội. Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ quy định tại điểm a khoản 3 Điều 194 Bộ luật hình sự, tính chất và mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, hậu quả bị cáo gây ra, nhân thân của các bị cáo, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xử phạt bị cáo T 15 năm tù, bị cáo H 12 năm tù về tội “Buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh” là có căn cứ và đúng pháp luật. Tại cấp phúc thẩm mặc dù bị cáo T có thật thà khai báo và thừa nhận hành vi phạm tội, bị cáo H không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới khác, nhưng xét thấy hậu quả các bị cáo đã gây ra là đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; do vậy, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo T và H, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

[3] Xét kháng cáo của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chị Đặng Thị Mỹ N (vợ của bị cáo T), thấy: Xe ô tô hiệu Kia Carens BKS 81A - 166.37 Giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Trương Thanh T; là tài sản mà T mua năm 2019 trong thời kỳ hôn nhân với chị Đặng Thị Mỹ N nên xác định đây là tài sản chung vợ chồng. Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo và chị N đều khai lợi nhuận do việc bị cáo kinh doanh mua bán thuốc cũng để phục vụ nhu cầu sinh hoạt gia đình, chiếc xe không phải là tài sản duy nhất mà vợ chồng bị cáo mà còn có tài sản khác, bị cáo đã sử dụng chiếc xe làm phương tiện phạm tội và mang thu nhập về phục vụ nhu cầu sinh hoạt gia đình chị N có biết. Tòa án sơ thẩm tịch thu xe của bị cáo T để sung Ngân sách Nhà nước là có căn cứ phù hợp quy định của pháp luật. Do đó không chấp nhận kháng cáo của chị N giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng, về án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Về án phí: Các bị cáo T, H, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan kháng cáo nhưng không được chấp nhận; do đó phải chịu án phí hình sự và dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật, mỗi người chịu số tiền: 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

Căn cứ khoản 2 Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trương Thanh T, bị cáo Hoàng H, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chị Đặng Thị Mỹ N; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2022/HSST ngày 30/3/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.

- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 194; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt bị cáo Trương Thanh T 15 (mười lăm) năm tù về tội “Buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/02/2021.

- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 194; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt bị cáo Hoàng H 12 (mười hai) năm tù tội “Buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/02/2021.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu xe ô tô nhãn hiệu xe ô tô hiệu Kia Carens BKS 81A - 16637 (không kiểm tra máy móc bên trong), có giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô BKS 81A - 166.37 mang tên Trương Thanh T; Giấy chứng nhận kiểm định xe số KC 6862799 và 01 Chứng nhận bảo hiểm mang tên Trương Thanh T để sung vào Ngân sách Nhà nước.

2. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2022/HSST ngày 30/3/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai về xử lý vật chứng, về án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Về án phí:

Các bị cáo Trương Thanh T và bị cáo Hoàng H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chị Đặng Thị Mỹ N phải chịu án phí dân sự phúc thẩm số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng).

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

441
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh số 263/2022/HS-PT

Số hiệu:263/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về