Bản án về tội buôn bán hàng giả là phân bón số 77/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN D – TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 77/2021/HS-ST NGÀY 12/10/2021 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG GIẢ LÀ PHÂN BÓN

Ngày 12 tháng 10 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện D. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 62/2021/TLST-HS ngày 05-8-2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2021/QĐXXST-HS ngày 14-9-2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thị Thùy D; sinh năm 1968 tại Đắk Lắk; Nơi ĐKHKTT: Thôn 6, xã T, huyện D, tỉnh Lâm Đồng; Nơi cư trú: Số 93 Nguyễn Đình Ch, phường Lộc Ph, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo; Thiên chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đình Ng và bà Hoàng Thị Thanh H; chồng Phạm Văn H và 03 con; Tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 04-6-2021, đến ngày 22-7-2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo được điều tra tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Công ty Cổ phần Thiên S.

Địa chỉ: Số 234 đường ĐT744, ấp Dòng S, xã A, thị xã B, tỉnh Bình Dương. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lý Hùng C; sinh năm 1966 – Chức vụ: Nhân viên (Văn bản ủy quyền ngày 16-4-2019). Có mặt tại phiên tòa.

Người liên quan:

1. Bà Huỳnh Thị Kim M; sinh năm 1982.

Địa chỉ: Số 309 Lý Thường K, tổ 12, thị trấn D, huyện D, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt tại phiên tòa và có đơn xin xét xử vắng mặt.

2. Ông Huỳnh Tấn Ph; sinh năm 1987.

Địa chỉ: Số 664/1 H, thị trấn D, huyện D, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt tại phiên tòa và có đơn xin xét xử vắng mặt.

3. Ông Nguyễn Ngọc A; sinh năm 1967.

Địa chỉ: Số 05 Nguyễn Trung Tr, tổ 17, thị trấn D, huyện D, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt tại phiên tòa.

4. Ông Lương Bá Th; sinh năm 1954.

Địa chỉ: Số 1278 H, thị trấn D, huyện D, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt tại phiên tòa.

5. Bà Trần Thị L; sinh năm 1975 và ông Đinh Văn B; sinh năm 1969.

Địa chỉ: Thôn A, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt tại phiên tòa và có đơn xin xét xử vắng mặt.

Người làm chứng: Ông Đồng Hữu Tr; sinh năm 1987.

Địa chỉ: Xóm 7, thôn 4, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt tại phiên tòa và có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng cuối năm 2018, đầu năm 2019, Nguyễn Thị Thùy D đã gọi điện cho Huỳnh Thị Kim M – SN: 1982, HKTT: TDP 12, TT Di Linh, Lâm Đồng, nhờ kiếm mối bán phân bón Komix 8-4-8 với giá là 200.000 đồng/1 bao, Mai đồng ý kiếm mối và bán phân bón cho Dương. Khi đã có người mua phân bón, Dthuê xe vận chuyển 7 tấn (140 bao loại 50kg/1bao) phân bón KOMIX 8-4-8 đến nhà của bà Mai có địa chỉ 309 Lý Thường K, Di Linh, Di Linh, Lâm Đồng. Khi vận chuyển phân bón tới nhà Mai. Sau khi giao phân bón Dnhận từ Mai số tiền 28.000.000 đồng (Dvà Mai không biết tài xế chở phân này là ai, ở đâu, tên tuổi cụ thể như thế nào; không nhớ biển kiểm soát của xe vận chuyển phân bón tới). Sau đó Mai có gọi điện thoại cho Huỳnh Tấn Ph – SN: 1987, HKTT: 664 H, TT. Di Linh, huyện D là em họ của Mai, để vận chuyển phân bón Komix 8-4-8 đi bán với giá là 270.000 đồng/1 bao phân bón; Phước có gọi lại cho Mai để thỏa thuận với nhau, giá bán 1 bao phân bón là 270.000 đồng/1 bao, trong đó nếu bán được Phước sẽ được hưởng 30.000 đồng/1 bao còn bà Mai lấy 240.000 đồng/1 bao còn lại; cả hai người đều đồng ý bán phân bón để lấy tiền thêm chênh lệch; quá trình thỏa thuận mua bán như trên Phước không biết Dlà ai, không thỏa thuận và mua bán phân bón với Dmà chỉ biết bán phân bón thông qua Mai. Trong thời gian khoảng cuối năm 2018 đầu năm 2019, Mai và Phước bán tổng cộng 135 bao phân bón Komix 8-4-8, với tổng số tiền là 36.900.000đ, cụ thể:

Lần 1: Khoảng tháng 01/2019, Phước bán cho ông Lương Bá Th, SN: 1954, địa chỉ: 1278 H, TT. Di Linh, huyện D và ông Nguyễn Ngọc A, SN: 1967, địa chỉ: số 5, Nguyễn Trung Tr, TT. Di Linh, Di Linh, Lâm Đồng số lượng 100 bao phân bón KOMIX 8-4-8 với số tiền 270.000đ/ 1 bao. Sau khi giao hàng xong Phước lấy tổng cộng số tiền là 27.000.000 đồng, trong đó Phước lấy 3.000.000 đồng, còn đưa cho bà Mai là 24.000.000 đồng.

Lần 2: Khoảng mấy ngày sau, Phước bán cho ông Vũ Đ - SN: 1958 và ông Lương Trình đều thường trú tại TDP 19, TT. Di Linh, Di Linh, Lâm Đồng mỗi người 10 bao phân KOMIX 8-4-8, tổng cộng là 20 bao phân bón. Phước có thuê xe ba gác vào nhà bà Mai để lấy 20 bao phân bón mang đi bán cho ông Vũ Đ với giá 270.000 đồng/1 bao, tổng cộng là 5.400.000đ. Sau đó Phước có về đưa cho bà Mai số tiền: 4.800.000 đ, Phước cầm số tiền: 600.000đ, trong đó Phước giữ lại số tiền 450.000đ và dùng số tiền 150.000đ để trả tiền thuê xe.

Lần 3: Phước tiếp tục đến nhà Mai chở 15 bao phân bón KOMIX 8-4-8 bán cho ông Đào Xuân T, ngụ tại thôn 9, Liên Đầm, Di Linh, Lâm Đồng với giá 300.000 đồng/ 1 bao. Ông Tùng đã thanh toán cho Phước số tiền là 4.500.000 đồng. Phước đưa cho Mai 4.000.000 đồng và Phước giữ lại 350.000 đồng, còn lại 150.000 đồng Phước thanh toán tiền thuê xe.

Sau khi mua phân bón về sử dụng thì phát hiện có dấu hiệu kém chất lượng nên những người mua phân đã báo lại với Công ty Cổ phần Thiên S. Công ty Cổ phần Thiên S đã bỏ ra 25.000.000 đồng thu hồi lại được 98 bao phân bón KOMIX 8-4-8 và giao nộp cho Cơ quan công an. Ông Vũ Đ tự nguyện giao nộp 06 bao phân còn lại.

Ngày 20/05/2019 Cơ quan CSĐT Công an huyện D có yêu cầu định giá số 207 ngày 20/05/2019 về việc định giá 104 bao phân bón hữu cơ khoáng nhãn hiệu Komix 8-4-8 đến Hội đồng định giá tài sản huyện D. Ngày 23/05/2019 Hội đồng định giá tài sản huyện D có kết luận xác định giá trị tài sản 104 bao phân bón tổng cộng số tiền là 39.520.000 đồng.

Ngày 30/10/2019 Cơ quan CSĐT Công an huyện D có Quyết định trưng cầu giám định số 222 về giám định mẫu bao phân bón Komix 8-4-8 trong vụ án nêu trên tại Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng. Ngày 02/11/2019 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng có Kết luận giám định số 1658/GĐ- PC09 về vỏ bao phân bón Komix 8-4-8 trong vụ án không phải là vỏ bao phân nhãn hiệu Komix 8-4-8 do Công ty Thiên Sinh sản xuất.

Kết luận giám định của Trung tâm kỹ thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng 2

 

TT

 

Tên mẫu

 

Tên chỉ tiêu và đơn vị tính

 

Phương pháp thử

Kết quả thử nghiệm

 

 

 

 

 

 

1

 

 

Mẫu vật số 1 là loại phân bón khoáng hữu cơ 8-4-8 nhãn hiệu Komix       do  ông Nguyễn  Ngọc  A  mua từ ông Huỳnh Tấn Ph, ký hiệu DL001

Ni tơ tổng số (Nts), %

khối lượng

 

TCVN 8557:2010

 

0,71

Lân hữu hiệu

(P2O5hh), % khối lượng

 

TCVN 8559:2010

 

0,66

Kali hữu hiệu

(K2O5hh), % khối lượng

 

TCVN 8560:2018

 

0,35

Hàm lượng chất hữu cơ, % khối lượng

 

TCVN 9294:2012

 

12,4

Độ ẩm, % khối lượng

TCVN 9297:2012

21,4

 

 

– Quatest 2 đối với các mẫu vật thu được:

 

2

Mẫu vật số 2 là loại phân bón khoáng hữu cơ 8-4-8 nhãn hiệu Komix do ông Lương Bá Th mua từ ông Huỳnh Tấn Ph, ký hiệu DL002

Ni tơ tổng số (Nts), % khối lượng

TCVN 8557:2010

0,68

Lân hữu hiệu (P2O5hh), % khối lượng

TCVN 8559:2010

0,67

Kali hữu hiệu (K2O5hh), % khối lượng

TCVN 8560:2018

0,42

Hàm lượng chất hữu cơ, % khối lượng

TCVN 9294:2012

12,0

Độ ẩm, % khối lượng

TCVN 9297:2012

22,0

3

Mẫu vật số 3 là loại phân bón khoáng hữu cơ 8-4-8 nhãn hiệu Komix do ông Nguyễn Ngọc A mua từ ông Huỳnh Tấn Ph, ký hiệu CA001

Ni tơ tổng số (Nts), % khối lượng

TCVN 8557:2010

0,72

Lân hữu hiệu (P2O5hh), % khối lượng

TCVN 8559:2010

0,65

Kali hữu hiệu (K2O5hh), % khối lượng

TCVN 8560:2018

0,51

Hàm lượng chất hữu cơ, % khối lượng

TCVN 9294:2012

13,5

Độ ẩm, % khối lượng

TCVN 9297:2012

22,5

Đến tháng 9/2019, do có mối quan hệ mua bán phân bón từ trước nên D đến nhà bà Trần Thị L có địa chỉ tại thôn A, Lộc An, Bảo Lâm để tiếp tục hỏi mua phân bón mặc dù biết số lượng phân bón từ kho nhà bà Luyến là hàng giả. Qua thỏa thuận bà D đã mua số lượng 8 tấn phân bón gồm 6 tấn phân bón Komix 8-4-8 (3.500.000 đồng/tấn) và 2 tấn phân bón NPK Đức Việt (8.000.000 đồng/tấn), tổng số tiền mua bán phân bón là 37.000.000 đồng. Sau đó, Dgọi điện cho Đồng Hữu Trọng, SN:1986, HKTT: Thôn 4, Lộc An, Bảo Lâm, Lâm Đồng để thuê xe đến nhà bà Luyến bốc xếp và vận chuyển số lượng 8 tấn phân bón nêu trên đến địa bàn huyện D để tiêu thụ. Tuy nhiên, trong quá trình vận chuyển đến địa bàn huyện D thì bị cơ quan chức năng kiểm tra, lập biên bản thu giữ toàn bộ số phân bón nói trên.

Ngày 17/10/2019 Cơ quan CSĐT Công an huyện D có yêu cầu định giá số 321 ngày 17/10/2019 về việc định giá 160 bao phân hữu cơ khoáng nhãn hiệu Komix 8-4-8, NPK 19-10-19 Đức Việt đến Hội đồng định giá tài sản huyện D. Ngày 28/10/2019 Hội đồng định giá tài sản huyện D có kết luận số 360/KL-HĐĐG xác định giá trị tài sản 160 bao phân tổng cộng là 70.200.000 đồng trong đó giá trị tài sản 120 bao phân bón Komix 8-4-8 là 44.400.000 đồng, giá trị tài sản 40 bao phân bón NPK 19-10-19 Đức Việt là 25.800.000 đồng.

Ngày 30/10/2019 Cơ quan CSĐT Công an huyện D có Quyết định trưng cầu giám định số 221 ngày 30/10/2019 gửi Phòng kỹ thuật hình sự (PC 09) Công an tỉnh Lâm Đồng giám định mẫu vật là bao bì phân bón do Công ty Thiên Sinh cung cấp so với mẫu bao bì phân bón được lấy từ 120 bao phân bón Komix 8-4-8 trong vụ việc trên. Ngày 06/11/2019 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng có Kết luận giám định số 1659/GĐ-PC09 về vỏ bao phân bón Komix 8-4-8 trong vụ án không phải là vỏ bao phân nhãn hiệu Komix 8-4-8 do Công ty Thiên Sinh sản xuất.

Kết luận giám định của Trung tâm kỹ thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng 2 – Quatest 2:

TT

Tên mẫu

Tên chỉ tiêu

Phương pháp thử

Kết quả thử nghiệm

1

Mẫu vật số 1 là loại phân bón khoáng hữu cơ nhãn hiệu Komix 8-4-8 do Công ty Cổ phần Thiên S sản xuất, ký hiệu: TT01

Ni tơ tổng số (Nts), % khối lượng

TCVN 8557:2010

1,40

Lân hữu hiệu (P2O5hh), % khối lượng

TCVN 8559:2010

1,68

Kali hữu hiệu (K2O5hh), % khối lượng

TCVN 8560:2018

0,62

Hàm lượng chất hữu cơ, % khối lượng

TCVN 9294:2012

21,1

Độ ẩm, % khối lượng

TCVN 9297:2012

24,8

2

Mẫu vật số 2 là loại phân bón nhãn hiệu NPK cao cấp 19-10- 19+TE+Bo do Công ty Cổ phần Đức Việt sản xuất, ký hiệu:

TT02

Ni tơ tổng số (Nts), % khối lượng

TCVN 5815:2018

19,4

Lân hữu hiệu (P2O5hh), % khối lượng

TCVN 5815:2018

Nhỏ hơn 0,3

Kali hữu hiệu (K2O5hh), % khối lượng

TCVN 8560:2018

Nhỏ hơn 0,05

Độ ẩm, % khối lượng

TCVN 5815:2018

3,23

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thị Thùy D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra bị can Nguyễn Thị Thùy D đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử lý.

Tình tiết tăng nặng: bị can thực hiện hành vi buôn bán phân bón giả 02 lần, mỗi lần đều đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên thuộc trường hợp phạm tội 02 lần trở lên theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS.

Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện D đã thu giữ:

104 bao phân bón (loại 50kg/ 1 bao) nhãn hiệu KOMIX 8-4-8 trên bao bì có in nội dung Công ty Cổ phần Thiên S sản xuất – địa chỉ: lầu 6, tòa nhà Thành Đô, số 14,16 Bình Lợi, phường 13, quận Tân Bình, Tp Hồ Chí Minh.

120 bao phân bón (loại 50kg/ 1 bao) nhãn hiệu KOMIX 8-4-8 trên bao bì có in nội dung Công ty Cổ phần Thiên S sản xuất – địa chỉ: lầu 6, tòa nhà Thành Đô, số 14,16 Bình Lợi, phường 13, quận Tân Bình, Tp Hồ Chí Minh.

40 bao phân bón (loại 50kg/ 1 bao) nhãn hiệu NPK cao cấp 19-10-19+TE+Bo trên bao bì có in Công ty cổ phần Đức Việt sản xuất – địa chỉ: số 267, quốc lộ 20, K.P Hiệp Lợi, TT Định Quán, Đồng Nai.

01 điện thoại di động hiệu “Sam Sung” màu đen 01 cuốn sổ ghi chép của bị can Nguyễn Thị Thùy D.

Các vật chứng trên hiện giao cho Chi cục thi hành án dân sự huyện D quản lý. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là Công ty Cổ phần Thiên S yêu cầu Nguyễn Thị Thùy D bồi thường số tiền 25.000.000 đồng là tiền Công ty đã bỏ ra để thu hồi lại số phân bón giả mà bị can đã bán.

Tại bản cáo trạng số 63/CT-VKS ngày 02-8-2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện D đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Thùy D về tội “Buôn bán hàng giả là phân bón” theo điểm a khoản 1 Điều 195 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện D giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo cáo trạng đã công bố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 195; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 35; Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt tiền bị cáo Nguyễn Thị Thùy D từ 120.000.000đ đến 150.000.000đ về tội “Buôn bán hàng giả là phân bón”; Tịch thu tiêu hủy 224 bao phân bón (loại 50kg/ 1 bao) nhãn hiệu KOMIX 8-4-8 trên bao bì có in nội dung Công ty Cổ phần Thiên S sản xuất – địa chỉ: lầu 6, tòa nhà Thành Đô, số 14,16 Bình Lợi, phường 13, quận Tân Bình, Tp Hồ Chí Minh và 40 bao phân bón (loại 50kg/ 1 bao) nhãn hiệu NPK cao cấp 19-10-19+TE+Bo trên bao bì có in Công ty cổ phần Đức Việt sản xuất – địa chỉ: số 267, quốc lộ 20, K.P Hiệp Lợi, TT Định Quán, Đồng Nai. Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu “Sam Sung” màu đen và 01 cuốn sổ ghi chép, tạm giữ 01 điện thoại di động hiệu “Sam Sung” màu đen để đảm bảo thi hành án.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi và các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện D và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ai có ý kiến thắc mắc hoặc khiếu nại về hành vi và các quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi và các quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, nhân chứng Đồng Hữu Trọng vắng mặt, những người liên quan Huỳnh Thị Kim M, Huỳnh Tấn Ph, Trần Thị L và Đinh Văn B vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt đã có lời khai rõ ràng trong quá trình điều tra, việc vắng mặt của những người này không gây trở ngại cho việc xét xử. Căn cứ Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

[3] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và khai nhận: Khoảng cuối năm 2018, đầu năm 2019, bị cáo D đã gọi điện cho Huỳnh Thị Kim M nhờ kiếm mối bán phân bón Komix 8-4-8 với giá là 200.000 đồng/1 bao. Khi đã có người mua phân bón, Dthuê xe vận chuyển 7 tấn (140 bao loại 50kg/1bao) phân bón KOMIX 8-4-8 đến nhà của bà Mai có địa chỉ 309 Lý Thường K, Di Linh, Di Linh, Lâm Đồng. Sau đó Mai có gọi điện thoại cho Huỳnh Tấn Ph là em họ của Mai, để vận chuyển phân bón Komix 8-4-8 đi bán cho ông Lương Bá Th, ông Nguyễn Ngọc A, ông Vũ Đ và ông Đào Xuân T.

Sau khi mua phân bón về sử dụng thì phát hiện có dấu hiệu kém chất lượng nên những người mua phân đã báo lại với Công ty Cổ phần Thiên S. Công ty Cổ phần Thiên S đã bỏ ra 25.000.000 đồng thu hồi lại được 98 bao phân bón KOMIX 8-4-8 và giao nộp cho Cơ quan công an. Ông Vũ Đ tự nguyện giao nộp 06 bao phân còn lại.

Đến tháng 9-2019, do có mối quan hệ mua bán phân bón từ trước nên Dđến nhà bà Trần Thị L có địa chỉ tại thôn A, Lộc An, Bảo Lâm để tiếp tục hỏi mua phân bón mặc dù biết số lượng phân bón từ kho nhà bà Luyến là hàng giả. Qua thỏa thuận bà D đã mua số lượng 8 tấn phân bón gồm 6 tấn phân bón Komix 8-4-8 (3.500.000 đồng/tấn) và 2 tấn phân bón NPK Đức Việt (8.000.000 đồng/tấn), tổng số tiền mua bán phân bón là 37.000.000 đồng. Sau đó, Dgọi điện cho Đồng Hữu Trọng để thuê xe đến nhà bà Luyến bốc xếp và vận chuyển số lượng 8 tấn phân bón nêu trên đến địa bàn huyện D để tiêu thụ. Tuy nhiên, trong quá trình vận chuyển đến địa bàn huyện D thì bị cơ quan chức năng kiểm tra, lập biên bản thu giữ toàn bộ số phân bón nói trên.

Ngày 23/05/2019 Hội đồng định giá tài sản huyện D có kết luận xác định giá trị tài sản 104 bao phân bón tổng cộng số tiền là 39.520.000 đồng.

Kết luận giám định số 1658/GĐ-PC09 về vỏ bao phân bón Komix 8-4-8 trong vụ án không phải là vỏ bao phân nhãn hiệu Komix 8-4-8 do Công ty Thiên Sinh sản xuất.

Ngày 28/10/2019 Hội đồng định giá tài sản huyện D có kết luận số 360/KL- HĐĐG xác định giá trị tài sản 160 bao phân tổng cộng là 70.200.000 đồng trong đó giá trị tài sản 120 bao phân bón Komix 8-4-8 là 44.400.000 đồng, giá trị tài sản 40 bao phân bón NPK 19-10-19 Đức Việt là 25.800.000 đồng.

Kết luận giám định số 1659/GĐ-PC09 về vỏ bao phân bón Komix 8-4-8 trong vụ án không phải là vỏ bao phân nhãn hiệu Komix 8-4-8 do Công ty Thiên Sinh sản xuất.

Kết luận giám định của Trung tâm kỹ thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng 2 – Quatest 2 đối với các mẫu vật thu được: Không đúng hàm lượng các chất đã công bố.

[4] Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo, lời khai của bị hai, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và lời khai của nhân chứng phù hợp với các chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ đã có đủ căn cứ xét xử bị cáo Nguyễn Thị Thùy D về tội “Buôn bán hàng giả là phân bón” theo khoản 1 Điều 195 Bộ luật hình sự như Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện D đã truy tố.

[5] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo Nguyễn Thị Thùy D là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đã có thời gian buôn bán phân bón, biết rõ các quy định của nhà nước về việc kinh doanh phân bón - ngành nghề kinh doanh có điều kiện nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội buôn bán hàng giả là phân bón với lỗi cố ý, gây mất trật tự trong việc quản lý kinh tế, quản lý thị trường của nhà nước, ảnh hưởng xấu đến việc sản xuất, kinh doanh và uy tín của các doanh nghiệp sản xuất phân bón, ảnh hưởng nghiêm trọng đến cây trồng và năng suất cây trồng của người dân; bị cáo đã có hai lần thực hiện hành vi mua bán phân giả nên cần xử lý thật nghiêm khắc để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Tuy nhiên, khi lượng hình cũng cần xem xét cho bị cáo ở chỗ, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và đã tự nguyện bồi thường cho bị hại nên cần áp dụng điểm b, s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nên không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội mà xử phạt tiền bị cáo cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[6] Về xử lý vật chứng: 224 bao phân bón (loại 50kg/ 1 bao) nhãn hiệu KOMIX 8-4-8 trên bao bì có in nội dung Công ty Cổ phần Thiên S sản xuất – địa chỉ: lầu 6, tòa nhà Thành Đô, số 14,16 Bình Lợi, phường 13, quận Tân Bình, Tp Hồ Chí Minh; 40 bao phân bón (loại 50kg/ 1 bao) nhãn hiệu NPK cao cấp 19-10- 19+TE+Bo trên bao bì có in Công ty cổ phần Đức Việt sản xuất – địa chỉ: số 267, quốc lộ 20, khu phố Hiệp Lợi, thị trấn Định Quán, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai qua giám định là phân giả là vật chứng của vụ án cần tịch thu tiêu hủy. 01 điện thoại di động hiệu “Sam Sung” màu đen và 01 cuốn sổ ghi chép của bị cáo Nguyễn Thị Thùy D không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo. Tuy nhiên cần tạm giữ 01 điện thoại di động Samsung màu đen để đảm bảo thi hành án.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho Công ty Cổ phần Thiên S số tiền 25.000.000đ, đại diện Công ty Cổ phần Thiên S không có yêu cầu gì thêm nên không đề cập giải quyết.

Đối với Công ty Cổ phần Đức Việt có địa chỉ: Số 267 quốc lộ 20, khu phố Hiệp Lợi, thị trấn Đinh Quán, huyện Định quán, tỉnh Đồng nai, qua xác minh đã không còn hoạt động tại địa chỉ nêu trên nên không có ý kiến gì nên không đề cập giải quyết trong vụ án này.

[8] Về án phí: Căn cứ Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sựNghị quyết 326/2016/QH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị Thùy D phạm tội “Buôn bán hàng giả là phân bón”. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 195; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 35; Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt tiền bị cáo Nguyễn Thị Thùy D số tiền 150.000.000đ.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 224 bao phân bón (loại 50kg/ 1 bao) nhãn hiệu KOMIX 8-4-8 trên bao bì có in nội dung Công ty Cổ phần Thiên S sản xuất – địa chỉ: lầu 6, tòa nhà Thành Đô, số 14,16 Bình Lợi, phường 13, quận Tân Bình, Tp Hồ Chí Minh; 40 bao phân bón (loại 50kg/ 1 bao) nhãn hiệu NPK cao cấp 19-10-19+TE+Bo trên bao bì có in Công ty cổ phần Đức Việt sản xuất – địa chỉ: số 267, quốc lộ 20, khu phố Hiệp Lợi, thị trấn Định Quán, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị Thùy D 01 điện thoại di động hiệu “Sam Sung” màu đen và 01 cuốn sổ ghi chép. Tạm giữ 01 điện thoại di động hiệu “Sam Sung” màu đen để đảm bảo thi hành án.

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị Thùy D phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án bị cáo, bị hại và người liên quan có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Người liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết. Người liên quan chỉ được kháng cáo phần có liên quan.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

363
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội buôn bán hàng giả là phân bón số 77/2021/HS-ST

Số hiệu:77/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Di Linh - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về