Bản án về tội buôn bán hàng cấm (thuốc lá điếu) số 07/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÀ CÚ, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 07/2023/HS-ST NGÀY 03/03/2023 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 03 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số: 03/2023/TLST- HS, ngày 11 tháng 01 năm 2023; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:

07/2022/QĐXXST-HS, ngày 20 tháng 02 năm 2023 tại 02 điểm cầu:

Tại điểm cầu trung tâm Tòa án nhân dân huyện Trà Cú gồm có: Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.

Tại điểm cầu thành phần Công an huyện Trà Cú gồm có:

- Bị cáo Trì Quốc V, sinh ngày: 08/02/1985; tại huyện TrC, tỉnh Trà Vinh; nơi cư trú ấp MRB, xã ĐA, huyện TrC, tỉnh Trà Vinh; nghề nghiệp: Nuôi cá lóc; trình độ văn hóa (học vấn): 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trì Văn L, sinh năm 1951 và bà Huỳnh Thị L, sinh năm: 1957; bị cáo có vợ tên Trần Thị Mỹ T, sinh ngày 16/7/1990 và 02 người con, lớn nhất sinh năm 2014, nhỏ nhất sinh năm 2017; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 30/12/2014 đã bị Công an huyện TrC ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 7.500.000 đồng về hành vi kinh doanh hàng cấm bị cáo đã chấp hành xong quyết định xử phạt và đã xóa tiền sự; bị bắt quả tang và tạm giữ vào ngày 19/6/2022. Đến ngày 21/6/2022 bị khởi tố, áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam cho đến nay, có mặt.

- Hỗ trợ kỹ thuật tại điểm cầu thành phần Công an huyện TrC: Ông Trần Văn T, Thẩm phán sơ cấp, Công tác tại Tòa án nhân dân huyện Trà Cú.

- Hỗ trợ Kiểm sát viên tại điểm cầu thành phần Công an huyện TrC: Ông Phan Văn T, Kiểm tra viên, Công tác tại Viện kiểm sát nhân dân huyện TrC.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Cáo trạng số: 06/CT-VKS-HS, ngày 10/01/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TrC, tỉnh Trà Vinh truy tố bị cáo Trì Quốc V về tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 190 Bộ luật Hình sự.

Hành vi bị cáo bị truy tố như sau: Bị cáo Trì Quốc V trước đây có thời gian làm lơ xe, bị cáo V có quen biết với một người tên gọi là Nh (không rõ họ tên và địa chỉ cụ thể) ở tỉnh LA, biết Nh có buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu nên bị cáo V muốn mua thuốc lá điếu nhập lậu của Nh để bán lại kiếm lời. Ngày 18/6/2022, bị cáo V sử dụng số điện thoại di động của mình 0857338X liên lạc với Nh qua số điện thoại 0834580X thỏa thuận và thống nhất với Nh mua thuốc lá điếu nhập lậu gồm Hero với số lượng là 3.500 bao, giá tiền 164.000đ/10 bao thuốc và Jet với số lượng 2.500 bao, giá tiền 194.000đ/10 thuốc. Khi nào Nh đến giao thuốc sẽ điện thoại cho bị cáo V ra nhận.

Đến khoảng 3 giờ rạng sáng ngày 19/6/2022, Nh điều khiển xe ô tô loại 7 chổ ngồi màu trắng, không rõ biển số đến nhà bị cáo V giao thuốc lá, trước khi giao thuốc lá Nh nhận tiền trước, khi Nh đã nhận đủ số tiền 105.900.000 (một trăm lẽ năm triệu chín trăm nghìn) đồng thì bắt đầu chuyển thuốc lá từ trên xe xuống, bị cáo V vừa nhận đủ 6.000 bao thuốc lá thì bị lực lượng Công an huyện Trà Cú phát hiện bắt quả tang, còn Nh lên xe điều khiển tẩu thoát.

Ngay sau khi bắt quả tang, Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của bị cáo Trì Quốc V tại ấp MRB, xã ĐA, huyện TrC, tỉnh Trà Vinh phát hiện trong phòng ngủ số 02 có chứa 570 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu Hero; 240 bao thuốc lá nhập lậu nhãn hiệu Scott và nhiều tang vật khác có liên quan. Đối với số thuốc lá nhập lậu phát hiện lúc khám xét, bị cáo V khai nhận cũng mua của Nh cất giấu trong nhà để dành buôn bán.

Về việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật, xử lý vật chứng: Ngày 23/6/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trà Cú đã ra Quyết định tạm giữ tài sản, đồ vật, tài liệu của Trì Quốc V gồm:

- 2.500 bao thuốc lá nhãn hiệu Jet, đã được niêm phong.

- 4.070 bao thuốc lá nhãn hiệu Hero, đã được niêm phong.

- 240 bao thuốc lá nhãn hiệu SCOTT, đã được niêm phong.

- 20 túi nylon màu đen đã qua sử dụng, loại có quay xách.

- 08 túi nylon trong suốt, không có quay xách, đã qua sử dụng.

- 01 điện thoại di động hiệu Vtel, có số Imei: 355863061305449 và 355863061305456, đã qua sử dụng, đang sử dụng sim: 0857338X.

- 02 giỏ xách bằng sợi nhựa màu nâu, có tay xách màu xanh.

- 04 giỏ xách bằng sợi nhựa màu đỏ - vàng, có tay xách màu đỏ.

Đối với số điện thoại 0834580X, bị cáo V trình bày là của người tên Nh, liên lạc để mua thuốc lá điếu nhập lậu. Qua xác minh số điện thoại nêu trên do người tên Hà Thị D, sinh ngày 29/9/1992 nơi thường trú: Số …Phạm Ngũ Lão, phường PhgL, thành phố HD, tỉnh Hải Dương đăng ký nhưng qua làm việc bà D trình bày không có đăng ký và sử dụng số thuê bao di động nêu trên, bà Dung không biết ai tên Nh, cũng không quen biết với bị cáo Trì Quốc V, không có liên lạc bán thuốc lá điếu nhập lậu cho bị cáo Trì Quốc V, việc Nh sử dụng tên của bà Dung để đăng ký số điện thoại 0834580X, bà D hoàn toàn không biết. Do đó, không có căn cứ để xử lý trách nhiệm hình sự đối với bà Dung nêu trên. Đối với người tên Nh, bị cáo V khai nhận là người bán thuốc lá điếu nhập lậu cho bị cáo V, tại thời điểm bắt quả tang, Nh lên xe điều khiển tẩu thoát không bắt giữ được. Qua quá trình điều tra đến nay chưa chứng minh được người tên Nh là ai, sẽ tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

Riêng đối với bà Trần Thị Mỹ Tiền là vợ bị cáo V, quá trình sống chung nhà, hoàn toàn không biết bị cáo V mua thuốc lá điếu nhập lậu về để buôn bán, việc V bàn bạc với Nh để mua thuốc lá bà Tiền không biết, không có hành vi giúp sức cho bị cáo V. Ngoài ra, bà Tiền cũng không biết việc bị cáo V cất giấu 570 bao thuốc lá nhãn hiệu Hero và 240 bao thuốc lá nhãn hiệu Scott trong phòng ngủ, do thuốc lá được chứa cất giấu trong túi ny long màu đen. Do đó, không có căn cứ để xử lý trách nhiệm hình sự đối với bà Tiền nêu trên.

Tại phiên tòa, bị cáo Trì Quốc V trình bày: Thừa nhận toàn bộ hành vi tàng trữ 6.810 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu Hero, Jet và Scott thì bị phát hiện bắt quả tang, mục đích bị cáo mua số thuốc lá điếu nhập lậu nói trên là để bán lại kiếm lời. Khi Cơ quan điều tra khám xét nơi ở của bị cáo thì bị cáo có mặt chứng kiến, số thuốc lá nói trên do một mình bị cáo mua bán mà không có liên quan đến ai. Nguồn gốc số tiền 105.900.000 đồng mua thuốc lá là tiền làm ăn riêng của bị cáo không phải tài sản chung của vợ chồng, việc bị cáo mua bán thuốc lá điếu nhập lậu thì vợ bị cáo không biết. Bị cáo rất hối hận xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để sớm về phụ vợ chăm sóc 02 con còn nhỏ và làm người có ích cho xã hội.

Phần luận tội, sau khi phân tích các yếu tố cấu thành tội phạm, nhân thân, điều kiện, hoàn cảnh, vai trò, tính chất mức độ hành vi của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị tuyên bố bị cáo Trì Quốc V phạm tội “Buôn bán hàng cấm”. Đề nghị áp dụng khoản 3 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo trì Quốc V từ 08 năm tù đến 09 năm tù. Về vật chứng đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu 01 điện thoại di động hiệu Vtel, có số Imei: 355863061305449 và 355863061305456, đã qua sử dụng, đang sử dụng sim: 0857338X sung vào ngân sách nhà nước; tịch thu tiêu hủy toàn bộ các bao thuốc lá nhãn hiệu Jet, Hero, SCOTT, các túi ni long, giỏ xách đã thu giữ. Về án phí đề nghị buộc bị cáo chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không tự bào chữa, không phát biểu tranh luận;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Căn cứ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP ngày 26/8/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng thì “thuốc lá điếu nhập lậu là hàng cấm”. Tại Điều 190 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định thuốc lá điếu nhập lậu là hàng cấm. Tại Công văn số 138/CVTĐ-2022-HHTLVN, ngày 18/10/2022 của Hiệp hội thuốc lá Việt Nam phúc đáp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trà Cú xác định 03 mẫu thuốc lá Hero, Jet và Scott thu giữ của bị cáo là thuốc lá điếu nhập lậu.

[2] Xét lời khai của bị cáo Trì Quốc V tại phiên tòa là phù hợp với các lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp với thời gian bị cáo có mặt tại hiện trường vụ án, phù hợp với kết quả khám nghiệm hiện trường và vật chứng vụ án thu giữ được gồm 6.810 bao thuốc lá điếu nhập lậu (2.500 bao thuốc lá nhãn hiệu Jet, 4.070 bao thuốc lá nhãn hiệu Hero và 240 bao thuốc lá nhãn hiệu SCOTT). Bị cáo Trì Quốc V có lời khai bị cáo mua thuốc lá điều nhập lậu của người tên Nh cất giấu trong nhà để nhằm mục đích buôn bán kiếm lời. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ chứng cứ chứng minh việc bị cáo mua thuốc lá điếu nhập lậu để bán lại nhằm thu lợi bất chính là sự việc có thật. Hành vi buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu của bị cáo Trì Quốc V tổng cộng 6.810 bao nên bị cáo Trì Quốc V đã phạm vào tội “Buôn bán hàng cấm” với tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “Thuốc lá điếu nhập lậu 4.500 bao trở lên” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 190 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Tội phạm bị cáo thực hiện là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo Trì Quốc V đã xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế, xâm phạm đến chế độ quản lý đối với các loại hàng hoá mà Nhà nước cấm kinh doanh, là nguyên nhân gián tiếp gây ra các bệnh liên quan đến tác hại của thuốc lá ngoài cộng đồng. Bị cáo V là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu là hành vi bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng vì lợi nhuận mà cố ý thực hiện tội phạm; bị cáo là người đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi buôn bán hàng cấm vào năm 2014, điều này thấy cho bị cáo có nhân thân xấu; do đó, cần xử lý bị cáo nghiêm trước pháp luật.

[4] Quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi, bị cáo là lao động chính trong gia đình, có trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật hạn chế, bị cáo có người thân có công với Tổ Quốc. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo từ 08 năm đến 09 năm tù là tương xứng với hành vi bị cáo thực hiện nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Tuy nhiên, xét thấy cần thiết phải phạt bổ sung bị cáo một khoản tiền nhất định, tước đi lợi ích vật chất của bị cáo, qua đó tác động đến ý thức, thái độ của bị cáo, răn đe đối với bị cáo và những người khác trong xã hội đối với loại tội phạm này.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với 6.810 bao thuốc lá điếu nhập lậu nhãn hiệu Hero, Jet và Scott là hàng cấm nên cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 20 túi nylon màu đen đã qua sử dụng, loại có quay xách, 08 túi nylon trong suốt, không có quay xách, đã qua sử dụng, 02 giỏ xách bằng sợi nhựa màu nâu, có tay xách màu xanh, 04 giỏ xách bằng sợi nhựa màu đỏ - vàng, có tay xách màu đỏ là dụng cụ chứa đựng thuốc lá nhập lậu và không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại di động hiệu Vtel, có số Imei: 355863061305449 và 355863061305456, đã qua sử dụng, đang sử dụng sim 0857338X của bị cáo V là phương tiện dùng vào việc phạm tội cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Các bị cáo không thuộc trường hợp được miễn nộp án phí, giảm án phí và không thuộc trường hợp không phải nộp án phí nên bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng.

[7] Cơ quan điều tra đã áp dụng đầy đủ các biện pháp điều tra đối với người tên Nh đã bán thuốc lá điều nhập lậu cho bị cáo, nhưng chưa có đủ chứng cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người tên Nh. Kiến nghị Cơ quan điều tra tiếp tục thực hiện các biện pháp điều tra để có biện pháp xử lý đối với người tên Nh.

[8] Trong quá trình điều tra, truy tố những người tham gia tố tụng không có ai khiếu nại gì về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố. Qua kiểm tra và thấy rằng các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, hành vi của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, các biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị can, các biên bản hoạt đồng điều tra của Cơ quan điều tra, biên bản khám nghiệm hiện trường… được thu thập là đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên hợp pháp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 3, khoản 4 Điều 190, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố: Bị cáo Trì Quốc V phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

Xử phạt bị cáo Trì Quốc V 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/6/2022.

Xử phạt bổ sung bị cáo Trì Quốc V 20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng sung vào ngân sách nhà nước.

Kiến nghị Cơ quan điều tra tiếp tục thực hiện các biện pháp điều tra để có biện pháp xử lý đối với người tên Nh.

Về vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy:

- 2.500 bao thuốc lá nhãn hiệu Jet, đã được niêm phong.

- 4.070 bao thuốc lá nhãn hiệu Hero, đã được niêm phong.

- 240 bao thuốc lá nhãn hiệu SCOTT, đã được niêm phong.

- 20 túi nylon màu đen đã qua sử dụng, loại có quay xách.

- 08 túi nylon trong suốt, không có quay xách, đã qua sử dụng.

- 02 giỏ xách bằng sợi nhựa màu nâu, có tay xách màu xanh.

- 04 giỏ xách bằng sợi nhựa màu đỏ - vàng, có tay xách màu đỏ.

Tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước:

- 01 điện thoại di động hiệu Vtel, có số Imei: 355863061305449 và 355863061305456, đã qua sử dụng, đang sử dụng sim: 0857338X.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Trì Quốc V phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo Trì Quốc V có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh xét xử theo thủ tục phúc thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

39
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội buôn bán hàng cấm (thuốc lá điếu) số 07/2023/HS-ST

Số hiệu:07/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cầu Ngang - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về
Ngày 03/03/2023, Tòa án nhân dân huyện Trà Cú xét xử trực tuyến vụ án hình sự bị cáo Trì Quốc V về tội "Buôn bán hàng cấm". Bị cáo V bị bắt quả tang khi đang nhận 6.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu từ một người tên Nh. Cơ quan điều tra khám xét nhà bị cáo thu giữ thêm 810 bao thuốc lá nhập lậu cùng nhiều tang vật khác.

Tòa án nhận định hành vi của bị cáo là nghiêm trọng, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước. Tuy nhiên, do các tình tiết giảm nhẹ nên tuyên phạt bị cáo 8 năm tù và phạt bổ sung 20 triệu đồng.

Về vật chứng, Tòa tịch thu tiêu hủy toàn bộ số thuốc lá nhập lậu, các túi đựng thuốc. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước điện thoại di động bị cáo sử dụng để liên lạc mua bán. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí. Kiến nghị điều tra xử lý người tên Nh bán thuốc lá nhập lậu cho bị cáo.