Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 97/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH – TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 97/2022/HS-ST NGÀY 29/06/2022 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Trong ngày 29/6/2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 90/2022/TLST-HS ngày 25 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 91/2022/QĐXXST-HS ngày 15/6/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Thị Đ (tên gọi khác: không), sinh năm 1954 tại Đồng Nai.

- Giới tính: Nữ.

- Nơi cư trú: Ấp A, xã PT, huyện LT, tỉnh Đồng Nai.

- Nghề nghiệp: buôn bán; Trình độ học vấn: 03/12; Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Phật giáo.

- Họ và tên cha: Trần Văn N (đã chết).

- Họ và tên mẹ: Huỳnh Thị Nh (đã chết) - Gia đình có 06 anh em, bị cáo là con thứ 4, có chồng tên Trần Đức X, sinh năm 1950, có 01 con nhưng đã chết.

- Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

Bị cáo có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ ngày 28/01/2022, Công an huyện Long Thành kiểm tra cửa hàng tạp hóa “Cô Xuân” ở ấp A, xã PT, huyện LT do Trần Thị Đ làm chủ thì phát hiện 870 bao thuốc lá điếu hiệu JET; 860 bao thuốc lá điếu hiệu Esse; 340 bao thuốc lá điếu hiệu Craven A; 220 bao thuốc lá điếu hiệu Hero nhập lậu và không có hóa đơn chứng từ. Tổng số thuốc thu giữ của bà Trần Thị Đ không có hóa đơn chứng từ là 2.290 bao các loại.

Quá trình điều ra xác định Trần Thị Đ làm nghề kinh doanh buôn bán tại ấp A, xã PT. Trong quá trình kinh doanh, vào khoảng tháng 10/2021, Trần Thị Đ đã có hành vi mua thuốc lá điếu nhập lậu của một số người không rõ nhân thân, lai lịch đem về cất giấu bán lại thu lời bất chính số tiền 1.000.000đ.

Ngày 07/02/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành có văn bản số 183 gửi Hiệp hội thuốc lá Việt Nam đề nghị xác định loại thuốc lá điếu thu giữ có phải là thuốc lá điếu nhập lậu hay không. Tại văn bản trả lời số 23 ngày 08/02/2022 của Hiệp hội thuốc lá Việt Nam xác định mẫu thuốc lá gửi đến giám định là thuốc lá điếu nhập lậu.

Tại bản Cáo trạng số 80/CT-VKSLT ngày 24 tháng 5 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố bị cáo Trần Thị Đ về tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo điều khoản nói trên và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 190; điểm s, khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Trần Thị Đ từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách từ 02 năm đến 03 năm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai nhận: Bị cáo làm nghề kinh doanh, buôn bán tạp hóa tại cửa hàng tạp hóa “Cô Xuân” ở ấp A, xã PT, huyện LT, tỉnh Đồng Nai. Từ khoảng tháng 10/2021, Trần Thị Đ đã có hành vi mua thuốc lá điếu nhập lậu của một số người không rõ nhân thân, lai lịch đem về cất giấu bán lại thu lời bất chính số tiền 1.000.000đ. Vào khoảng 10 giờ ngày 28/01/2022, Công an huyện Long Thành kiểm tra hành chính thì phát hiện, thu giữ của Trần Thị Đ là 2.290 bao các loại không có hóa đơn chứng từ, không dán tem kiểm định.

Tại văn bản số 23/CVTĐ-2022-HHTLVN ngày 08/02/2022 của Hiệp hội thuốc lá Việt Nam đã xác định 04 mẫu cây thuốc lá điếu có nhãn hiệu Jet, Craven A, Esse và Hero do cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thanh cung cấp là thuốc lá điếu nhập lậu. Ngoài ra, Hiệp hội thuốc lá Việt Nam còn chỉ dẫn, cho biết: theo pháp luật hiện hành của Nhà nước, tất cả các loại thuốc lá điếu sản xuất, lưu thông hợp pháp trên thị trường nước ta (kể cả thuốc lá nhập khẩu) đều có dán tem do Bộ Tài chính ban hành sử dụng trên từng bao thuốc lá và có in cảnh báo sức khỏe bằng hình ảnh và bằng tiếng Việt Nam trên 02 mặt trước và sau của bao thuốc lá.

Căn cứ lời khai của bị cáo Trần Thị Đ và quá trình điều tra thể hiện 2.290 bao thuốc lá điếu thu giữ tại cửa hàng tạp hóa “Cô Xuân” đều không dán tem, đối chiếu với văn bản do Hiệp hội thuốc lá Việt Nam cung cấp thì có đủ căn cứ xác định 2.290 bao thuốc lá này đều là thuốc lá điếu nhập lậu.

[2] Bị cáo Trần Thị Đ đã khai nhận hành vi phạm tội. Đối chiếu lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ đó, có đủ căn cứ để xác định bị cáo Trần Thị Đ đã phạm vào tội “Mua bán hàng cấm” được quy định tại điểm b khoản 1, Điều 190 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, tội danh và hình phạt hoàn toàn phù hợp với Điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố và viện dẫn tại Cáo trạng.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo là những người trưởng thành, có đầy đủ khả năng nhận thức pháp luật, biết rõ việc mua, bán, kinh doanh, sản xuất thuốc lá điếu nhập lậu bị Nhà nước nghiêm cấm. Nhưng xuất phát từ động cơ vụ lợi, từ tháng 10/2021, bị cáo đã bất chấp pháp luật, mua thuốc lá điếu nhập lậu của một số đối tượng để về bán lại cho người khác. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lý kinh tế, đi ngược lại với việc đấu tranh phòng chống tội phạm trong lĩnh vực kinh tế trên địa bàn huyện Long Thành nói riêng và trong toàn xã hội nói chung. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với mặt hàng thuốc lá điếu, làm mất tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc, tương ứng với hành vi phạm tội nhằm giáo dục bị cáo, đồng thời cũng để răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng xem xét bị cáo Trần Thị Đ mới phạm tội lần đầu. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Tính đến thời điểm xét xử, bị cáo đã 68 tuổi. Bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, chỉ có 02 vợ chồng già yếu lương tựa lẫn nhau (chồng của bị cáo đã 72 tuổi), có con nhưng đã chết từ nhỏ, ngoài việc buôn bán tạp hóa thì không còn nguồn thu nhập nào khác, điều này đã được chính quyền địa phương xác nhận. Quá trình chuẩn bị xét xử, bị cáo đã tự nguyện nộp lại số tiền thu lợi bất chính 1.000.000đ để sung công quỹ Nhà nước. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Sau khi cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đối chiếu với quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo để thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

Xét, bị cáo Trần Thị Đ đã lớn tuổi, có hoàn cảnh kinh tế khó khăn được chính quyền địa phương xác nhận. Bị cáo đã nhận ra sai lầm của mình, có nơi cư trú rõ ràng. Kể từ khi bị cáo được tại ngoại đến nay đã không vi phạm pháp luật, chấp hành tốt theo giấy triệu tập của các cơ quan tiến hành tố tụng nên không cần thiết cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội, xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách kéo dài, giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi cư trú quản lý, giáo dục để bị cáo có cơ hội sửa sai, trở thành người công dân tốt.

Đối với các đối tượng có hành vi bán thuốc lá điếu nhập lậu cho bị cáo Trần Thị Đ nhưng chưa xác định được nhân thân, lai lịch, địa chỉ nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành tiếp tục xác minh và xử lý sau.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 2.290 bao thuốc lá nhập lậu, trong đó có 870 bao thuốc lá điếu hiệu JET; 860 bao thuốc lá điếu hiệu Esse; 340 bao thuốc lá điếu hiệu Craven A; 220 bao thuốc lá điếu hiệu Hero cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về biện pháp tư pháp: Số tiền thu lợi bất chính 1.000.000đ do bị cáo Trần Thị Đ tự nguyện nộp lại cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: bị cáo phải chịu 200.000đ theo quy định.

[8] Về tính hợp pháp của các quyết định, hành vi tố tụng của điều tra viên, kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đều được thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Trần Thị Đ phạm tội: “Buôn bán hàng cấm”.

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 190; điểm s, khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38, 65 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo; Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Trần Thị Đ 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 (hai) năm 08 (tám) tháng tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Trần Thị Đ cho Ủy ban nhân dân xã Phước Thái, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai nơi bị cáo thường trú để giám sát, giáo dục. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Bị cáo Trần Thị Đ phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 1.000.000 đồng là tiền bị cáo thu lợi bất chính;

- Tịch thu tiêu hủy 2.290 bao thuốc lá, trong đó có 870 bao thuốc lá điếu hiệu JET; 860 bao thuốc lá điếu hiệu Esse; 340 bao thuốc lá điếu hiệu Craven A; 220 bao thuốc lá điếu hiệu Hero.

(Theo Biên lai thu tiền số 0001030 ngày 28/6/2022 và Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 24/5/2022 của cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành) Án phí HSST: bị cáo phải nộp 200.000đ.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

133
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 97/2022/HS-ST

Số hiệu:97/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về