Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 95/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LN, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 95/2023/HS-ST NGÀY 28/12/2023 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 28/12/2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện LN, tỉnh Bình Phước xét xử vụ án hình sự thụ lý số 99/2023/TLST-HS ngày 30/11/2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 97/2023/QĐXXST-HS ngày 15/12/2023, đối với bị cáo:

Nguyễn Minh T, sinh ngày 01/01/1969 tại Trà Vinh; Tên gọi khác: không; Nơi cư trú: Ấp 1, xã LT, huyện LN, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đình Bảo và bà Nguyễn Thị Tuyết; Vợ Nguyễn Ngọc Quyên; Bị cáo có 02 người con lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2006.

Tiền án:

-Ngày 31/5/2019 TAND Quận Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù về tội trộm cắp tài sản (bản án số 135/2019/HSST). Chấp hành án xong ngày 13/10/2019.

-Ngày 07/12/2020 Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản (bản án số 186/2020/HS-PT). Chấp hành án xong ngày 11/7/2022.

Tiền sự: Ngày 08/02/2023 Công an huyện LN xử phạt hành chính 3.000.000đ về hành vi Buôn bán hàng cấm.(quyết định số 146/QĐ-XPHC) Nhân thân: Ngày 27/9/1993 TAND tỉnh Đồng nai xử phạt 08 năm tù về tội trộm cắp tài sản công dân; Ngày 28/9/2001 TAND huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương xử phạt 22 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; Ngày 16/8/2011 TAND thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu xử phạt 03 năm tù về tội Trộm cắp tài sản.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

*Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thị L, sinh năm 1993 (vắng mặt) Nơi cư trú: Ấp 1, xã LT, huyện LN, tỉnh Bình Phước

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 03 giờ 30 phút ngày 07/5/2023, Nguyễn Minh T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Sirius, biển số 93P1 – 548.xx từ phòng trọ tại ấp 5, xã Lộc Thái, huyện LN, tỉnh Bình Phước đến khu vực biên giới Việt Nam – Campuchia để tìm mua thuốc lá điếu nhập lậu nhằm mang về thị trường Việt Nam bán kiếm lời. Khi đến khu vực đường tuần tra biên giới thuộc ấp Thạnh Biên, xã Lộc Thạnh, huyện LN, tỉnh Bình Phước, Tâm thấy 01 người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) đang đứng bên đường nên dừng xe lại để hỏi mua thuốc lá điếu. Sau đó, cả hai thỏa thuận và Tâm đồng ý mua 500 bao thuốc lá điếu hiệu Hero, 250 bao thuốc lá điếu hiệu Jet với giá là 17.800 đồng/bao thuốc lá điếu Jet và 14.800 đồng/bao thuốc lá điếu Hero. Sau khi mua được thuốc lá, Tâm cất giấu tất cả 750 bao thuốc lá điếu vào 02 giỏ xách mang theo sẵn và điều khiển xe chạy về. Khi đến khu vực thuộc ấp 2, xã Lộc Thái, huyện LN thì bị Công an huyện LN kết hợp với Công an xã Lộc Thái kiểm tra phát hiện và lập biên bản.

Vật chứng thu giữ: 500 bao thuốc lá điếu hiệu Hero, 250 bao thuốc lá điếu hiệu Jet, không có tem nhập khẩu, không có tem cảnh báo sức khỏe bằng tiếng Việt;

01 giỏ xách bằng nhựa, màu vàng-xanh-đỏ; 01 giỏ xách màu hồng-xanh; 01 xe mô tô nhãn hiệu Sirius, biển số 93P1 – 548.xx.

Qua xác minh nhận thấy: Trước đó vào ngày 08/02/2023 Nguyễn Minh T đã bị Công an huyện LN xử phạt hành chính về hành vi buôn bán hàng cấm (thuốc lá điếu) số tiền 3.000.000đ nên đã chuyển hồ sơ vụ vi phạm có dấu hiệu phạm tội để truy cứu trách nhiệm hình sự.

Ngày 04/8/2023 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện LN đã quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Minh T. Quá trình điều tra, bị cáo đã thừa nhận hành vi buôn bán hàng cấm.

Bản cáo trạng số 89/CT-VKS ngày 30/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện LN truy tố bị cáo Nguyễn Minh T về tội “Buôn bán hàng cấm” theo điểm l khoản 2 Điều 190 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Nguyễn Minh T về tội “Buôn bán hàng cấm”.

Áp dụng điểm l khoản 2 Điều 190, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015; sửa đổi bổ sung năm 2017 Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù.

Vật chứng vụ án:

Đề nghị tịch thu tiêu hủy 500 bao thuốc lá điếu hiệu Hero, 250 bao thuốc lá điếu hiệu Jet, là hàng cấm cùng 01 giỏ xách bằng nhựa, màu vàng-xanh-đỏ; 01 giỏ xách màu hồng-xanh; Trả cho Nguyễn Thị L 01 xe mô tô nhãn hiệu Sirius, biển số 93P1 – 548.xx.

Bị cáo không tranh luận, không kêu oan.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Hoàn cảnh gia định khó khăn, con bị bệnh. Bị cáo xin hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện LN, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện LN và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo và những người tham gia tố tụng.

[2] Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện LN đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp thời gian và địa điểm xảy ra vụ án, phù hợp với kết quả khám nghiệm hiện trường và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Có đầy đủ cơ sở khách quan để xác định:

Ngày 07/5/2023, Nguyễn Minh T sử dụng xe mô tô nhãn hiệu Sirius, biển số 93P1 – 548.xx đi đến khu vực biên giới Việt Nam – Campuchia để tìm mua 500 bao thuốc lá điếu hiệu Hero, 250 bao thuốc lá điếu hiệu Jet với số tiền là 11.850.000 đồng mục đích đem về huyện Phú Riềng bán khiếm lời. Khi Tâm về đến khu vực thuộc ấp 2, xã Lộc Thái, huyện LN thì bị Cơ quan Công an kiểm tra phát hiện.

[3]Căn cứ công văn số 586/SCM-TM ngày 15/5/2023 của Sở Công thương Bình Phước về việc xác định chủng loại, nhãn hiệu, nguồn gốc thuốc là điếu như sau:

-Số lượng tang vật được kiểm tra 750 bao thuốc lá điếu, loại 20 điếu/bao, trong đó có 250 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Jet và 500 bao hiệu Hero.

-Xác định nguồn gốc: số thuốc lá trên không có tem nhập khẩu, không có tem cảnh báo sức khỏe bằng tiếng Việt.

Đối chiếu với các quy định tại Thông tư 37/2013/TT-BCT ngày 30/12/2013 của bộ công thương về việc quy định nhập khẩu thuốc lá điếu, xì gà và Thông tư liên tịch 05/2013/TTLT-BYT-BCT ngày 0-8/02/2013 của Bộ Y Tế và Bộ Công Thương về việc hướng dẫn việc ghi nhãn, in cảnh báo sức khỏe trên bao bì thuốc lá, Sở Công Thương xác định: Toàn bộ số thuốc lá nêu trên không đủ điều kiện nhập khẩu và lưu thông tại thị trường Việt Nam.

Như vậy, hành vi của bị cáo Tâm đi mua thuốc lá không đủ điều kiện nhập khẩu và lưu thông tại thị trường Việt Nam đem về bán lại đã có dấu hiệu của tội buôn bán hành cấm, qua công tác điều tra xác minh, thể hiện ngày 08/02/2023 Nguyễn Minh T đã bị Công an huyện LN xử phạt hành chính về hành vi buôn bán hàng cấm đến ngày 07/5/2023 Tâm tiếp tục thực hiện hành vi mua bán hàng cấm với số lượng 750 bao thuốc lá.

[4]Tuy số lượng thuốc lá dưới 1.500 bao nhưng bị cáo là người có một tiền sự về hành vi buôn bán hàng cấm tính đến ngày vi phạm lần nay bị cáo chưa được coi là chưa bị xử phạt hành chính .

Theo quy định tại Điều 190 Bộ luật hình sự: Tội sản xuất,buôn bán hàng cấm:

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232, 234, 244, 246, 248, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)Sản xuất, buôn bán thuốc bảo vệ thực vậ mà nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng từ 50kg đến dưới 100kg hoặc từ 50 lít đến dưới 100 lít;

b) Buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu từ 1.500 bao đến dưới 3.000 bao;

………………………………..

e) Sản xuất, buôn bán hàng hóa dưới mức quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản này nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 188, 189, 191, 192, 193, 194, 195, 196 và 200 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

a) Có tổ chức;

b)Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

………………………………………… l, Tái phạm nguy hiểm.

Đối chiếu với điều luật đã viện dẫn, hành vi vận chuyển 750 bao thuốc là của bị cáo vào ngày 07/5/2023 mục đích là đem bán của Tâm đã thỏa mãn điều kiện để xác định bị cáo phạm tội “Buôn bán hàng cấm”. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm đây tình tiết định khung quy định tại điểm l khoản 2 Điều 190 Bộ luật hình sự.

Trên cơ sở đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện LN đã truy tố Nguyễn Minh T về tội buôn bán hàng cấm quy định tại điểm l khoản 2 Điều 190 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ.

Về ý thức chủ quan của bị cáo: Biết rõ việc mua bán thuốc lá lậu bị pháp luật cấm nhưng bị cáo vẫn thực hiện.

[5] Hành vi của bị cáo xâm phạm đến chế độ quản lý đối với các loại hàng hóa mà nhà nước cấm lưu thông, kinh doanh.

Bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý mục đích của bị cáo vì lợi nhuận cho bản thân gây ảnh hưởng xấu đến trật tự tại địa phương. Do đó, cần có hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất và hậu quả của hành vi mà bị cáo gây ra.

[6] Xét về nhân thân: Bị cáo có nhân xấu, có 02 tiền án về tội trộm cắp tài sản, bị cáo phạm phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, 01 tiền sự về tội buôn bán hàng cấm. Ngoài ra, trước đó bị cáo đã bị xét xử 03 lần tại các tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương đều về tội trộm cắp tài sản nhưng đã chấp hành án xong và thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án tích.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, vợ bỏ đi từ năm 2017 và bị cáo hiện đang nuôi con bị bệnh được được Ủy ban nhân dân xã LT xác nhận. Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Đối với tình tiết tăng nặng tái phạm nguy hiểm đã được áp dụng tình tiết định khung nên bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt như trong bản luận tội là phù hợp nên được hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về vật chứng vụ án:

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Sirius, biển số 93P1 – 548.xx qua xác minh là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị L, khi bị cáo Tâm sử dụng vào hành vi phạm tội chị Linh không biết tuy chị Linh vắng mặt tại phiên tòa, nhưng chị Linh có yêu cầu được nhận lại xe mô tô (bút lụt 73) do vậy cần thiết trả lại cho chị Linh.

Đối với 500 bao thuốc lá điếu hiệu Hero, 250 bao thuốc lá điếu hiệu Jet, là hàng cấm cùng 01 giỏ xách bằng nhựa, màu vàng-xanh-đỏ; 01 giỏ xách màu hồng- xanh, là công cụ thực hiện hành vi phạm tội cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu theo luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh T phạm tội: “ Buôn bán hàng cấm”.

2. Về điều luật áp dụng và hình phạt:

Áp dụng điểm l khoản 2 Điều 190, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian tính tù từ ngày đi chấp hành án.

3. Vật chứng vụ án:

-Áp dụng điểm c khoản 1 điều 47 bộ luật hình sự, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 bộ luật tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy 500 bao thuốc lá điếu hiệu Hero, 250 bao thuốc lá điếu hiệu Jet là hàng cấm cùng 01 giỏ xách bằng nhựa, màu vàng-xanh-đỏ; 01 giỏ xách màu hồng-xanh.

-Trả cho Nguyễn Thị L 01 xe mô tô nhãn hiệu Sirius, biển số 93P1 – 548.xx.

( Biên bản giao nhận vật chứng số 0007036 Ngày 27/12/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện LN)

4. Về án phí: Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc Hội:

Bị cáo Nguyễn Minh T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan do vắng mặt nên thời gian kháng tính từ ngày nhận được bản án hoặc niên yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 95/2023/HS-ST

Số hiệu:95/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lộc Ninh - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về