TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH CHƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 77/2023/HS-ST NGÀY 27/09/2023 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM
Ngày 27 tháng 9 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Nghệ An.
Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 66/2023/HSST-ST, ngày 11 tháng 9 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 92/2023/QĐST- HS ngày 13 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo:
1, Họ và tên: Phùng Nguyễn Thanh V. Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nữ.
Sinh ngày: 21 tháng 01 năm 1984, tại Quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh Nơi cư trú: Xóm Đình Sơn, xã ĐV, huyện TC, tỉnh NA. Dân tộc: Kinh;Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Vệt Nam. Nghề nghiệp: Kinh doanh; Trình độ học vấn: 12/12 Con ông: Phùng Kim H ( Đã chết), Con bà Nguyễn Thị Phương Th
Anh chị em ruột: Bị cáo là con dung nhất trong gia đình.
Có chồng là Nguyễn Văn H, con có 03 con. Lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ nhất sinh năm 2020 Tiền án, tiền sự: Không Bị can bị tạm giữ, từ ngày 22/03/2023 cho đến ngày 28/3/2023 Có mặt tại phiên tòa.
Người đại diện hợp pháp cho bị cáo có bà Hồ Thị T,sinh năm 1982 Nơi cư trú: Xóm Đình Sơn, xã ĐV, huyện TC, tỉnh NA. Có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo có Luật sư: Nguyễn Thị Thúy K. Văn phòng luật sư C, Đoàn luật sư tỉnh Nghệ An. Có mặt tại phiên tòa.
2, Họ và tên: Phạm Công S. Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam. Sinh ngày: 27 tháng 7 năm 1969, tại huyện C, tỉnh Nghệ An.
Nơi cư trú: Xóm Tiên Quánh, xã ĐV, huyện TC, tỉnh NA. Dân tộc: Kinh;Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Vệt Nam. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12 Con ông: Phạm Đức H, Con bà Hoàng Thị X.
Anh chị em ruột: có 6 người bị cáo là con thứ nhất trong gia đình.
Có vợ là Nguyễn Thị H. Con có 03 con. Lớn nhất sinh năm 1993, nhỏ nhất sinh năm 2008 Tiền án, tiền sự: Không Bị can bị tạm giữ, từ ngày 22/03/2023 cho đến ngày 28/3/2023 Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm như sau:
Bản thân Phùng Nguyễn Thanh V là nhân viên hợp đồng lao động bán hàng cho Công ty TNHH một thành viên hóa chất 21, Bộ Quốc Phòng tại cửa hàng kinh doang số 10 có địa chỉ tại xóm Đỉnh Sơn, xã ĐV, huyện TC, tỉnh NA. Trong quá trình bán hàng, thì vào khoảng tháng 3 năm 2023 thông qua mạng xã hội Facebook, có một người đàn ông mà bản thân V không quen biết ở Thành phố Hà Nội có đặt mua của V 60 khối pháp hoa nổ để bán thì được V đồng ý và cũng thông quan mạng xã hội Facebook, V đặt mua của một người đàn ông không quen biết tại Thành phố Hồ Chí Minh 60 khối pháo hoa nổ với giá 600.000 đồng/ khối.
Sau đó V liên hệ với người đàn ông ở Hà Nội là người đã đặt cho V mua pháo và yêu cầu người này chuyển cho V số tiền 15.000.000 đồng. Người này đã chuyển số tiền trên cho V qua ứng dụng MONO. Sau khi nhận được tiền cọc từ người mua pháo hoa nổ. V đã liên hệ với người bán pháo hoa nổ ở Thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời truy cập vào đường Link do người mua cung cấp và chuyển cho người này số tiền 15.000.000 đồng. Số tiền còn lại hai bên sẽ thanh toán sau khi nhận được Pháo.
Ngày 20/3/2023, sau khi được người đàn ông bán pháo ở Thành phố Hồ Chí Minh thông báo về việc số pháo mà V đặt mua đã được chuyển về cho V theo xe khách thì V thông báo cho người đàn ông mua pháo ở Thành phố Hà Nội biết, người đàn ông này yêu cầu V trước khi gửi pháo thì phải xé nhãn pháo ra và dán nhãn pháo hoa của Bộ Quốc Phòng, đồng thời người này đã gửi cho V một bịch giấy nhãn hiệu pháo hoa của Bộ Quốc phòng.
Ngày 20/3/2023 V nói với Phạm Công S là người làm công cho V về việc khi nào có người gọi về việc pháo đã được chuyển về thì vận chuyển về cho V. Mặc dù biết đó là pháo hoa nổ nhưng S vẫn đồng ý.
Đến khoảng 8 giờ ngày 22/3/2023, S nhận được điện thoại từ một nhà xe không rõ tên tuổi, địa chỉ về việc đến khu vực cây xăng Dùng ở Thị trấn C, huyện Thanh chương để nhận hàng. S đã điều khiển chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, biển kiểm soát 37E1-xxxxx mà S mượn của chị Phạm Thị Ng để đi lấy pháo. Tại đây khi trao đổi với phụ xe xác nhận đúng là người nhận thì phụ xe đã giao cho S 06 thùng các tông. Do số lượng nhiều nên S đã chở 3 thùng các tông về nhà V trước. Tại đây S và V mở thùng hàng để kiểm tra thì thấy bên trong đều là phảo hoa nổ. V lấy 05 khối pháo xe nhãn mác ban đầu ra rồi dán nhãn có dòng chữ “ CÔNG TY TNHH MỘT THÀNH VIÊN HÓA CHẤT 21”, “ DÀN PHUN HOA ĐẶC BIỆT”, còn S điều khiển xe tiếp tục quay lại cây xăng Dùng để tiếp tục vận chuyển 03 thùng các tông còn lại. Khi S đi đến xóm Phượng Sơn, xã ĐV, huyện TC, tỉnh NA thì bị phát hiện và bắt quả tang. Thu giữ 03 thùng các tông bên trong có 30 khối hình hộp chữ nhật, mỗi khối hình hộp có kích thước 14,3 x 14,3 x 10 cm, bên ngoài in chữ nước ngoài, bên trong mỗi khối có chứa 36 khối hình trụ tròn đường kính 2,3cm và 01 xe mô tôn nhãn hiệu HONDA, biển kiểm soát 37E1-xxxxx.
Khám xét nơi ở khẩn cấp của Phùng Nguyễn Thanh V, Cơ quan điều tra Công an huyện C, tỉnh Nghệ An thu giữa 25 khối hình hộp chữ nhật, mỗi khối hình hộp có kích thước 14,3 x 14,3 x 10 cm, bên ngoài in chữ nước ngoài, bên trong mỗi khối có chưa 36 khối hình trụ tròn đường kính 2,3cm, 05 khối hình hộp chữ nhật, mỗi khối hình hộp có kích thước 14,3 x 14,3 x 10 cm, bên ngoài in chữ “ CÔNG TY TNHH MỘT THÀNH VIÊN HÓA CHẤT 21”, “ DÀN PHUN HOA ĐẶC BIỆT” bên trong mỗi khối có chứa 36 khối hình trụ tròn đường kính 2,3cm và 159 tờ giấy có đặc điểm, kích thước tương tự nhau được in nhiều màu sắc, có dòng chữ “ CÔNG TY TNHH MỘT THÀNH VIÊN HÓA CHẤT 21”, “ DÀN PHUN HOA ĐẶC BIỆT”, kích thước 48 x 10 cm, 144 tờ giấy có đặc điểm, kích thước tương tự nhau, được in nhiều màu sắc, có dòng chữ “ CÔNG TY TNHH MỘT THÀNH VIÊN HÓA CHẤT 21”, “ DÀN PHUN HOA ĐẶC BIỆT”, kích thước 57 x 10 cm, 03 cuộn giấy bạc hình trụ tròn, mỗi trụ có kích thước 30 x 2cm, 05 túi ni lông có in dòng chữ “ CÔNG TY TNHH MỘT THÀNH VIÊN HÓA CHẤT 21”, “ CỬA HÀNG GIỚI THIỆU VÀ BÁN SẢN PHẨM PHÁO HOA” Địa chỉ: Cửa hàng số 10, xã Đồng Văn – C – Nghệ An. Điện thoại 096530xxxx – 034565xxxx.
Khám xét khẩn cấp địa điểm kinh doanh số 10 – Công ty TNHH một thành viên hóa chất 21, Bộ Quốc phòng có địa chỉ tại xóm Đỉnh Sơn, xã ĐV, huyện TC, tỉnh NA ( Nơi làm việc của Phùng Nguyễn Thanh V). Cơ quan điều tra Công an huyện C, tỉnh Nghệ An đã thu giữ: 101 bịch, mỗi bịch chứa 05 ống hình trụ tròn, có đặc điểm kích thước tương tự nhau mỗi ống dài 12 cm, bên ngoài bọc bằng giấy màu tím có dòng chữ ´Ống phun nước bạc”. 69 hình hộp, mỗi hộp có kích thước 19cm x 9cm x 11,8 cm bên ngoài được bọc giấy màu cam có in dòng chữ “ Pháo hoa phun viên, giàn phun viên”, bên trong có 36 hình tròn đường kính 1,6cm, 04 hình hộp, mỗi hộp có kích thước 17,5cm x15,5cm x 13 cm, bên ngoài được bọc bằng giấy màu xanh có dòng chữ : “Giàn phun hoa muôn màu” bên trong có 56 hình trụ tròn đường kính 02 cm.
Cùng ngày 23/3/2023 Cơ quan điều tra đã tiến hành mở niêm phong xác định trọng lượng và lấy mẫu giám định đối với 30 khối hình hộp chữ nhật có kích thước 14,3cm x 14,3cm x 10 cm bên ngoài in chữ nước ngoài bên trong mỗi khối chứa 36 khối hình trụ tròn có đường kích 2,3 cm khi bắt quả tang Phạm Công S có tổng khối lượng là 31,035 kg, 25 khối hình hộp chữ nhật có kích thước 14,3cm x 14,3cm x 10 cm bên ngoài in chữ nước ngoài bên trong mỗi khối chứa 36 khối hình trụ tròn có đường kích 2,3 cm khi khám xét khẩn cấp nơi ở của Phùng Nguyễn Thanh V có tổng khối lượng là 25,891 kg, 05 khối hình hộp chữ nhật có kích thước 14cm x 14cm x 10 cm bên ngoài in chữ “ CÔNG TY TNHH MỘT THÀNH VIÊN HÓA CHẤT 21”, “ DÀN PHUN HOA ĐẶC BIỆT” bên trong mỗi khối chứa 36 khối hình trụ tròn có đường kích 2,3 cm khi khám xét khẩn cấp nơi ở của Phùng Nguyễn Thanh V có tổng khối lượng là 5,184 kg.
Tại bản kết luận giám định số 1283/KL – KTHS, ngày 28/3/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận:
Các mẫu vật thu giữ khi bắt quả tang Phạm Công S gửi đến giám định đều là pháo, đều thuộc loại pháo nổ.
Các mẫu vật thu giữ khi khám xét nơi ở của Phùng Nguyễn Thanh V gửi đến giám định đều là pháo ., đều thuộc loại pháo nổ.
Trong quá trình điều tra nhận thấy Phùng Nguyễn Thanh V có biểu hiện của bệnh tâm thần nên Cơ quan điều tra Công an huyện C, tỉnh Nghệ An đã Quyết định trưng cầu giám định đối với Phùng Nguyễn Thanh V. Tại bản kết luận giám định pháp y số 25/KLGĐ, ngày 17/7/2023 của Phan viện pháp y tâm thần Bắc miền trung kết luận.
Tại thời điểm trước, trong và sau khi phạm tội và tại thời điểm giám định, Phùng Nguyễn Thanh V bị bệnh Rối loạn nhân cách, cảm xúc không ổn định, theo phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 năm 1992 có mã bệnh là F160.3.
Tại thời điểm trước, trong và sau khi phạm tội và tại thời điểm giám định, Phùng Nguyễn Thanh V đủ khả năng nhận thức nhưng hạn chế khả năng điều khiển hành vi.
Tại thời điểm sau khi phạm tội và tại thời điểm giám định, bệnh tiến triển nặng hơn, Phùng Nguyễn Thanh V hạn chế khả năng điều khiển hành vi.
Tại bản cáo trạng số 76/VKS-TC, ngày 11 tháng 9 năm 2023 của Vện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Nghệ An đã truy tố Phùng Nguyễn Thanh V về tội Buôn bán hàng cấm theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 190 Bộ luật hình sự và truy tố Phạm Công S về tội Vận chuyển hàng cấm theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 191 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa hôm nay đại diện Vện kiểm sát nhân dân huyện C vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phùng Nguyễn Thanh V phạm tội Buân bán hàng cấm và tuyên bố bị cáo Phạm Công S phạm tội Vận chuyển trái phép hàng cấm và đề nghị Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 190, điểm s, q khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 65 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội xử phạt bị cáo Phùng Nguyễn Thanh Thanh V 36 tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 5 năm. Thời hạn thủ thách tính từ ngày tuyên án.
Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 191, điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 65 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội xử phạt bị cáo Phạm Công S từ 24 đến 30 tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thủ thách từ 48 tháng đến 5 năm. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án.
Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Về vật chứng vụ án: Đề nghị tuyên bố tịch thu, tiêu hủy vật chứng của vụ án.
Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Phùng Nguyễn Thanh V luật sư Nguyễn Thị Thúy Kiều không tranh luận gì về mặt tội danh cũng như điều luật mà Đại diện Vện kiểm sát truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ sau: Sau khi phạm tội bị cáo đã thật thà khai báo, tỏ ră ăn năn hối cải với hành vi của mình. Trong quá trình trước, trong và sau khi phạm tội có nhược điểm về mặt nhận thức pháp luật, bản thân đang phải điều trị bênh. Bị cáo có hoàn cảnh khó khăn đang nuôi con nhỏ, có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Cho nên áp dụng điểm g khoản 2, Điều 190, điểm s, q khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 và Điều 65 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo ở mức thấp nhất khung hình phạt mà Vện kiểm sát đã đề nghị..
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Trong quá trình điều tra truy tố, các biện pháp và quyết định của điều tra viên và kiểm sát viên đều tuân thủ quy định của pháp luật.
[2]Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Phùng Nguyễn Thanh V và Phạm Công S hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng của Vện kiểm sát nhân dân huyện C đã truy tố.
Lời nhận tội của các bị cáo hoàn toàn phù hợp với biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, phù hợp với kết quả giám định và các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án.
Như vậy có đủ cơ sở để kết luận: Sau khi đặt mua 60 khối pháo đều thuộc loại pháo nổ. Phùng Nguyễn Thanh V đã nói với Phạm Công S vận chuyển về nơi ở của mình ở xóm Đỉnh Sơn, xã ĐV, huyện TC, tỉnh NA để mục đích bán kiếm lời. Phạm Công S biết rõ đó là pháo nổ nhưng vẫn đồng ý vận chuyển. S đã vận chuyển về nhà V 30 khối pháo, đều thuộc loại pháo nổ, có khối lượng 31.075 kg. Đến khoảng 10 giờ ngày 22/3/2023 khi S đang vận chuyển 30 khối pháo đều thuộc lại pháo nổ có trọng lượng 31.035 kg cho Phùng Nguyễn Thanh V thì bị Công án huyện C phát hiện và bắt giữ tại xóm Phượng Đình, xã ĐV, huyện TC, tỉnh NA.
Tổng trọng pháo nổ mà Nguyễn Phùng Thanh V cất dấu với mục đích bán và tổng khối lượng mà Phùng Công S vận chuyển trái phép là 62,11 kg.
Cho nên cáo trạng truy tố bị cáo Phùng Nguyễn Thanh V về hành vi Buôn bán hàng cấm theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 190 và truy tố Phạm Công S về tội Vận chuyển hàng cấm theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 191 Bộ luật hình sự là có cơ sở.
Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý của nhà nước về việc mua bán, vận chuyển mặt hàng kinh doang có điều kiện là Pháo nổ cho nên cần phải xử lý nghiêm.
Trong vụ án này vai trò của các bị cáo là khác nhau.
Đối với Phùng Nguyễn Thanh V là người đã tự mình lên hệ phương thức mua bán Phảo nổ, cũng như thỏa thuận về giá cả và phướng thức giao nhận hàng cho nên phải chịu vai trò chính.
Tuy nhiên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ sau: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thật thà khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình. Trong thời gian thực hiện hành vi phạm tội, cũng như trước và sau hành vi phạm tội mắc bệnh hạn chế về điều khiển hành vi. Bệnh tình theo kết quả giám định ngày càng nặng. Bản thân phải sử dụng thuốc điều trị thường xuyên, gia đình có con nhỏ, có bố mẹ là người có công với nước được tặng thưởng Bằng khen. Nếu lên mức án tù giam thì điều kiện để bị cáo điều trị bệnh gặp khó khăn. Xét bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho nên cần xem xét áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để xét xử bị cáo dưới khung hình phạt và giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú quản lý, giáo dục cũng đủ điều kiện cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.
Đối với Phạm Công S là người làm theo sự chỉ đạo của Nguyễn Phùng Thanh V. Bản thân không được hứa hẹn hay hưởng lợi gì từ việc buôn bán, giao dich này. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay thật thà khai báo, tỏ răn ăn năn hối cải với hành vi phạm tội. Gia đình có bố, mẹ là người có công với nước được tặng thưởng Huân Chương. Xét bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho nên cần xem xét áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để xét xử bị cáo dưới khung hình phạt và giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú quản lý, giáo dục cũng đủ điều kiện cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.
[3] Trong vụ án này, theo lời khai của bị cáo có người đàn ông ở Hà Nội là người đã nhờ bị cáo V mua hộ pháp cũng như người đàn ông ở Thành phố Hồ Chí Minh đã bán pháo cho V, cũng như xe khách đã vận chuyển pháo cho V. Nhưng bị cáo không rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra làm rõ.
Đối với hành vi của chị Phạm Thị Ng là người cho Phạm Công S mượn xe mô tô đi trong quá trình vận chuyển pháo. Nhưng bản thân chị Phạm Thị Ng không biết việc bị cáo dùng để làm phương tiện vận chuyển hàng cầm nên không phải chịu trách nhiệm về hành vi này. Hiện nay chiếc xe này đã trả lại không có yêu cầu gì nên không xem xét.
[4] Về vật chứng vụ án: Trong quá trình điều tra có thu giữ một số sản phẩm của Công ty TNHH một thành viên hóa chất 21, Bộ Quốc Phòng. Xét thấy không liên quan đến vụ án nên cơ quan điều trả đã trả lại cho chủ sở hữu. Đối với số pháp còn lại sau khi giám định là vật chứng của vụ án, hiện không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
[5] Về án phí: Các bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Phùng Nguyễn Thanh V phạm tội Buôn bán hàng cấm, bị cáo Phạm Công S phạm tội Vận chuyển hàng cấm Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 190, điểm s, q khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 65 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội:
Xử phạt bị cáo Phùng Nguyễn Thanh Thanh V 36 tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 5 năm. Thời hạn thủ thách tính từ ngày tuyên án.
Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 191, điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 65 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội Xử phạt bị cáo Phạm Công S 24 tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thủ thách từ 48 tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án.
Giao các bị cáo Phùng Nguyễn Thanh V và Phạm Công S cho Ủy ban nhân dân xã ĐV, huyện TC, tỉnh NA quản lý, giáo dục các bị cáo trong thời gian thử thách.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 ( hai ) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo..
Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
Về vật chứng vụ án: Tuyên bố tịch thu tiêu hủy số pháo nổ còn lại là 45 khối, 49 tờ giấy có đặc điểm, kích thước tương tự nhau, được in nhiều màu sắc, có dòng chữ “ CÔNG TY TNHH MỘT THÀNH VIÊN HÓA CHẤT 21”, “ DÀN PHUN HOA ĐẶC BIỆT” và 134 tờ giấy có đặc điểm, kích thước tương tự nhau, được in nhiều mãu sắc, có dòng chữ “ CÔNG TY TNHH MỘT THÀNH VIÊN HÓA CHẤT 21”, “ DÀN PHUN HOA ĐẶC BIỆT”, 03 cuộn giấy bạc hình trụ, thùng các tông. Hiện các vật chứng đang được bảo quản tại Công an huyện C, tỉnh Nghệ An.
Về án phí: Buộc Phùng Nguyễn Thanh V và Phạm Công S mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phì hình sự sơ thẩm.
Tuyên bố bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo, Luật sư bào chữa cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 77/2023/HS-ST
Số hiệu: | 77/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Chương - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về