TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CHÂU ĐỐC, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 75/2023/HS-ST NGÀY 30/06/2023 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM
Ngày 30 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Châu Đốc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 69/2023/TLST-HS ngày 15 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/2023/QĐXXST-HS, ngày 16 tháng 6 năm 2023 đối với các bị cáo:
1. Trần Văn C, sinh năm 1990, nơi sinh: thành phố C - tỉnh An Giang; nơi cư trú: tổ H, khóm V, phường N, thành phố C, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Đạo Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn K (chết) và bà Nguyễn Thị C1, sinh năm 1952; anh chị em có 06 người, bị cáo là người thứ năm; có vợ tên Nguyễn Thị C2, sinh năm 1990 và 03 con, lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2020. Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/10/2022 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.
2. Võ Hoàng S (C3), sinh năm 1987, nơi sinh: thành phố C - tỉnh An Giang; nơi cư trú: tổ H, khóm V, phường N, thành phố C, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn B (chết) và bà Dương Thị D (chết); anh chị em có 06 người, bị cáo là người thứ tư; có vợ tên Nguyễn Thị Mai T, sinh năm 1989 và 02 con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/10/2022 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.
3. Phan Công D1 (L), sinh năm 1997, nơi sinh: thành phố C - tỉnh An Giang; nơi cư trú: tổ H, khóm V, phường N, thành phố C, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Công D2, sinh năm 1977 và bà Trần Thị Ngọc Á, sinh năm 1977; anh chị em có 03 người, bị cáo là người thứ hai; có vợ tên Nguyễn Thị Ngọc H, sinh năm 1995 và 02 con, lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2019.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/10/2022 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.
4. Nguyễn Hảo H1, sinh năm 1985, nơi sinh: thành phố C - tỉnh An Giang; nơi cư trú: tổ A, khóm V, phường N, thành phố C, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Tàm ruộng; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Đạo Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T1 (chết) và bà Phan Thị Đ, sinh năm 1953; anh chị em có 05 người, bị cáo là người thứ năm; có vợ tên Lê Thị T2, sinh năm 1985 và 03 con, lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2020. Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/10/2022 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.
5. Trần Văn T3 (Tuấn C4), sinh năm 1988, nơi sinh: thành phố C - tỉnh An Giang; nơi cư trú: tổ A, khóm V, phường C, thành phố C, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo Hòa Hảo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Đl, sinh năm 1956 và bà Cao Thị H2, sinh năm 1958; anh chị em có 05 người, bị cáo là người thứ hai; chưa có vợ con.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/10/2022 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.
6. Nguyễn Văn H3, sinh năm 1994, nơi sinh: thành phố C - tỉnh An Giang; nơi cư trú: tổ H, khóm V, phường N, thành phố C, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Đạo Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn M (chết) và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1973; anh chị em có 02 người, bị cáo là người thứ hai; có vợ tên Võ Thị Thanh A, sinh năm 2003; chưa có con. Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/10/2022 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa. (các bị cáo đều có mặt tại phiên toà) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
- Ông Nguyễn Văn Hậu A1, sinh năm 1993, nơi cư trú: tổ A, khóm V, phường N, thành phố C, tỉnh An Giang; có mặt.
- Ông Ngô Q, sinh năm 1991, nơi cư trú: tổ A, khóm V, phường C, thành phố C, tỉnh An Giang; vắng mặt.
- Ông Nguyễn Văn H4, sinh năm 1995, nơi cư trú: tổ A, khóm V, phường N thành phố C, tỉnh An Giang; có mặt.
- Bà Nguyễn Thị C2, sinh năm 1990, nơi cư trú: tổ H, khóm V, phường N thành phố C, tỉnh An Giang; có mặt.
Người làm chứng:
- Ông Trần Văn T4, sinh năm 1992; có mặt.
- Ông Nguyễn Văn D3, sinh năm 1988; vắng mặt.
- Ông Trần Văn T5, sinh năm 1988; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 04 giờ ngày 06/10/2022, lực lượng phối hợp giữa Phòng C5 - Công an tỉnh A và Công an thành phố C, trên đường tuần tra, đến khu vực tổ A, khóm V, phường N, thành phố C, phát hiện, bắt quả tang Trần Văn C có hành vi mua bán thuốc lá điếu nhập lậu với Nguyễn Văn Hậu A1, thu giữ 4.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu (500 bao hiệu Nelson, 250 bao hiệu Bayon, 2.000 bao hiệu Hero, 1.250 bao hiệu Jet), 01 xuồng nhựa Composite, 04 xe mô tô, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, tiền Việt Nam 33.870.000 đồng cùng nhiều giấy tờ tùy thân, chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố c xác minh, xử lý theo luật định. Chiều, Hậu A1 khai: số thuốc lá điếu nhập lậu bị bắt giữ là của Chiều, mua của người Nam tên M1 (không rõ lai lịch, sống tại V Campuchia), thuê Nguyễn Văn H3, Nguyễn Hảo H1, Trần Văn T3 cảnh giới lực lượng chức năng cho Võ Hoàng S, Phan Công D1 trực tiếp vận chuyển đem về Việt Nam giao cho Chiều phần lẻ, bán lại để thu lợi. Khi Chiều đang bán 500 bao thuốc lá điếu nhập lậu (250 bao hiệu Jet, 250 bao hiệu Bayon) cho Hậu A1, bị phát hiện bắt quả tang. Cùng ngày, Nguyễn Văn H3,Nguyễn Hảo H1, Trần Văn T3, Phan Công D1, Võ Hoàng S đến Cơ quan Công an đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội.
Quá trình điều tra, còn xác định: Khoảng 15 giờ ngày 05/10/2022, Chiều điện cho Một đặt mua 5.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu hiệu Hero, J, N1, B1, số tiền 83.425.000 đồng, hẹn địa điểm giao nhận tại khu vực Cù lao, Vương quốc Campuchia. Sau đó, C nhận nhiều cuộc điện thoại đặt mua thuốc lá điếu nhập lậu: Ngô Quyền đặt mua 1.250 bao hiệu Hero, J, N1; Nguyễn Văn H4 đặt mua 1.000 bao hiệu Hero, J; Nguyễn Văn H5 Anh đặt mua 500 bao Jet, B1, C đồng ý và hẹn thời gian, địa điểm giao nhận lúc 04 giờ ngày 06/10/2022 tại khu vực B, tổ A, khóm V, phường N. Khoảng 03 giờ ngày 06/10/2022, như đã thỏa thuận với Một, Chiều điện thoại kêu S, D1 điều khiển vỏ lãi đến khu vực C, Campuchia nhận, vận chuyển 5.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu về Việt Nam giao cho C. Trên đường về, S điện báo Chiều đã nhận đủ số lượng 5.500 bao, C kêu S phân số thuốc lá này để vào 17 túi nhựa (một số túi chứa 250 bao và túi chứa 500 bao). Xong, Chiều điện cho H1, T3, H3, phân công cả ba cảnh giới lực lượng chống buôn lậu tại 03 địa điểm là trụ sở Đồn Biên phòng V, Phường Đ và cầu cống Đồn phường N. Đến khoảng 04 giờ cùng ngày, D1, S chở thuốc lá về đến khu vực B, do nước cạn, vỏ lãi đậu cách bò khoảng 20m, Chiều sử dụng xuồng nhựa, một mình chuyển 14 túi nhựa chứa 4.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu lên bờ, đang giao 500 bao thuốc lá cho Hậu A1, bị lực lượng chống buôn lậu phát hiện, bắt quả tang; còn Q và H4 đang ngồi gần đó chờ nhận thuốc lá đã đặt mua, liền tẩu thoát, bỏ lại 02 xe mô tô biển số 64E1-X, 67B1-X; riêng S, D1 điều khiển vỏ lãi chở 1.500 bao thuốc lá còn lại bỏ chạy về hướng Campuchia giao lại cho Một.
Vật chứng thu giữ: 4000 bao thuốc lá điếu nhập lậu (500 bao hiệu Nelson, 250 bao hiệu Bayon, 2.000 bao hiệu Hero, 1.250 bao hiệu Jet); 01 xuồng nhựa Composite, kích thước (0,7 x 4,9)m; 04 xe mô tô, biển số 67E1-X, 69E1- X, 67B 1-X, 64E1-X; 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Nokia; 01 bộ sim card số thuê bao 0847.734.X (không chứa thẻ sim); tiền Việt Nam 33.870.000 đồng; 02 tờ giấy tập học sinh có chữ và số viết mực xanh, đỏ; 01 áo khoác nhãn hiệu INDIAN (đã bàn giao Cơ quan Thi hành án dân sự);
Ngày 14/10/2022; Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố c, ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, lệnh tạm giam đối với Trần Văn C, Võ Hoàng S, Phan Công D1, Nguyễn Hảo H1, Trần Văn T3, Nguyễn Văn H3.
Tại Cáo trạng số 66/CT-VKSCD-HS ngày 14/6/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Châu Đốc truy tố bị cáo Trần Văn C về tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 190 của Bộ luật Hình sự; truy tố các bị cáo: Võ Hoàng S, Phan Công D1, Nguyễn Hảo H1, Trần Văn T3 và Trần Văn H6 về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 191 của Bộ luật Hình sự Tại phiên tòa, - Các bị cáo Trần Văn C, Võ Hoàng S, Phan Công D1, Nguyễn Hảo H1, Trần Văn T3, Nguyễn Văn H3 khai nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Châu Đốc truy tố. Các bị cáo không có ý kiến tranh luận.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án là ông Nguyễn Văn Hậu A1, ông Ngô Q, ông Nguyễn Văn H4 và bà Nguyễn Thị C2 cung cấp lời khai như đã cung cấp trong giai đoạn điều tra.
- Người làm chứng ông Trần Văn T4, ông Nguyễn Văn D3, ông Trần Văn T5 trình bày như lời khai đã cung cấp trong giai đoạn điều tra.
Thay mặt Hội đồng xét xử, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa Công bố lời khai những người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa;
Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa phát biểu lời luận tội: Đối chiếu lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra truy tố cùng với lời khai người liên quan, bản ảnh hiện trường và những tài liệu, chứng cứ đã thu thập, thu giữ, có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ cơ sở xác định bị cáo Trần Văn C phạm tội “Buôn bán hàng cấm”; Võ Hoàng S, Phan Công D1, Nguyễn Hảo H1, Trần Văn T3, Trần Văn H6 phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.
Ngoài ra, lời khai của các bị cáo còn phù hợp với vật chứng thu giữ, biên bản khám nghiệm hiện trường, kết luận định giá tài sản cùng các chứng cứ khác được cơ quan điều tra thu thập đúng trình tự, thủ tục luật định đã chứng minh hành vi phạm tội của các bị cáo.
Trường hợp các bị cáo Trần Văn C, Võ Hoàng S, Phan Công D1, Nguyễn Hảo H1, Trần Văn T3, Nguyễn Văn H3 khai lần buôn bán, vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu trước đó, không bị bắt quả tang; việc S, D1 điều khiển vỏ lãi chở 1.500 bao thuốc lá còn lại bỏ chạy về hướng Campuchia giao lại cho người tên Một khi lực lượng bắt quả tang Chiều và Nguyễn Văn Hậu A1, ngoài lời khai của các bị cáo, không chứng cứ khác nên Cơ quan điều tra không quy kết trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo về hành vi này.
Đối với người Campuchia tên Một, sinh sống tại Vương quốc Campuchia, có hành vi buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu, Cơ quan điều tra không điều kiện xác minh. Nguyễn Văn Hậu A1, Ngô Q, Nguyễn Văn H4 có hành vi buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu nhưng dưới mức quy định, không tiền án, tiền sự, Cơ quan điều tra chuyển xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp.
Do đó, giữ nguyên nội dung Cáo trạng số 66/CT-VKSCĐ-HS ngày 14 tháng 6 năm 2023 đã truy tố; Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, các bị cáo có tình tiết giảm nhẹ: người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; thuộc thành phần lao động; học lực thấp. Bị cáo C còn được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm, giải quyết vụ án”; Các bị cáo S, D1, H1, T3, H3 được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Đầu thú”; bị cáo Há có người thân thích là người có công cách mạng, bị cáo T3 tự nguyện khắc phục hậu quả, quy định tại điểm s, t khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Từ những chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở xác định bị cáo Trần Văn C có hành vi buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu với số lượng 4.000 bao; Võ Hoàng S, Phan Công D1, Nguyễn Hảo Hl, Trần Văn T3, Nguyễn Văn H3 cùng có hành vi vận chuyển 4000 bao thuốc lá điếu nhập lậu này. Vì vậy, C, S, D1, H1, T3, H3 phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội theo tính chất, mức độ của mỗi người gây ra. Cho nên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Châu Đốc truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lý nhà nước về kinh tế, gây tác hại xấu về nhiều mặt cho nền kinh tế. Do đó, cần có mức hình phạt tương xứng đối với các bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
Xét về tính chất vụ án, đây là vụ án có đồng phạm nhưng thuộc đồng phạm giản đơn, không có sự cấu kết và phân công vai trò chặt chẽ khi thực hiện tội phạm, nhưng cần phân hóa vai trò của từng bị cáo để cá thể hóa hình phạt.
Tuy nhiên, quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa hôm nay, nhận thấy các bị cáo có tình tiết giảm nhẹ: người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; thuộc thành phần nhân dân lao động; học lực thấp, hiểu biết pháp luật có phần hạn chế. Bị cáo C còn được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm, giải quyết vụ án”; các bị cáo S, D1, H1, T3, H3 được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội tự thú”; riêng bị cáo H1 có người thân thích là người có công cách mạng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Về hình phạt chính, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 190; điểm s, t khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38, Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Văn C từ 05 năm đến 05 năm 06 tháng tù, về tội “Buôn bán hàng cấm”.
- Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 191, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 58, Điều 17, Điều 38, Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Võ Hoàng S từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù.
- Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 191, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 58, Điều 17, Điều 38, Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phan Công D1 từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù.
- Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 191, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 58, Điều 17, Điều 38, Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Hảo H1 từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.
- Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 191, điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 58, Điều 17, Điều 38, Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Văn T3 từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.
- Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 191, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 58, Điều 17, Điều 38, Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H3 từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.
- Đối với Ngô Q, Nguyễn Văn H4, Nguyễn Văn H5 Anh chưa có tiền án, tiền sự và số lượng thuốc lá điếu nhập lậu đã mua của c chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan điều tra chuyển xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp.
- Đối với Trần Văn T4 không tham gia canh đường trong ngày 06/10/2022 nên chưa đủ căn cứ quy kết trách nhiệm hình sự.
Về hình phạt bổ sung: đề nghị áp dụng đối với bị cáo Trần Văn C với số tiền từ 20.000.000 triệu đồng đến 30.000.000 đồng, các bị cáo còn lại do không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng.
Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đề nghị áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, - Tịch thu, tiêu hủy 500 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Nelson, 250 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Bayon, 2.000 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Hero, 1.250 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Jet; 01 xuồng nhựa Composite, kích thước (0,7 x 4,9)m; 02 tờ giấy tập học sinh có chữ và số viết mực xanh, đỏ; 01 áo khoác nhãn hiệu INDIAN;
- Tịch thu 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Nokia; 01 bộ sim card số thuê bao 0847.734.X (không chứa thẻ sim).
- 02 xe mô tô biển số 67B1-X, 64E1-X chuyển Cơ quan Công an thành phố C để bàn giao cơ quan có thẩm quyền xử lý trong vụ việc vi phạm hành chính để quyết định xử lý tịch thu phương tiện vận chuyển, buôn bán hàng cấm theo luật định;
- Trả lại cho Hậu A1 xe môtô biển số 69 E1 - X; bà Nguyễn Thị C2 xe môtô, biển số 67 E1 - X.
- Buộc các bị cáo C, S, D1, H1 và H3 nộp số tiền thu lợi bất chính đã nhận.
- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước tiền Việt Nam 33.870.000đ đã thu giữ của bị cáo C trong quá trình điều tra và 300.000 đồng do Trần Văn T6 nộp thay tiền thu lợi bất chính của bị cáo Trần Văn T3.
Các bị cáo không có ý kiến tranh luận về tội danh, khung hình phạt; trong lời nói sau cùng, các bị cáo cho xin được xem xét giảm nhẹ hình phạt do lần đầu phạm tội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về tố tụng:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[2] Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng. Mặc dù, đã được Tòa án tống đạt hợp lệ giấy triệu tập tham gia phiên tòa nhưng tại phiên tòa, một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt. Tuy nhiên, họ đã có lời khai trong hồ sơ vụ án, việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 293 Bộ luật tố tụng Hình sự quyết định vẫn tiến hành xét xử.
Về nội dung:
[3] Hành vi phạm tội:
Tại phiên tòa, các bị cáo C, S, D1, H1, T3, H3 khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã truy tố cụ thể: Vào ngày 06/10/2022, Chiều mua 5.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu của người nam tên M1 từ Campuchia về để bán kiếm lời, C thuê S, D1 vận chuyển số hàng lậu nói trên và H1, T3, H3 làm nhiệm vụ cảnh giới. Sau khi C đã nhận 4.000 bao thuốc lá và đang bán cho Hậu A1 500 bao thuốc lá thì bị bắt quả tang nên S, D1 điều khiển vỏ lãi chở 1.500 bao còn lại chạy về hướng Campuchia giao lại cho Một.
Số tiền các bị cáo đã thu lợi như sau: Chiều được 300.000 đồng, S được 100.000 đồng, H1 được 450.000 đồng, H3 và T3 mỗi người 300.000 đồng, riêng D1 chưa thu lợi.
Xét thấy, lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo trong giai đoạn điều tra; phù hợp với lời khai những người làm chứng; người liên quan liên quan; phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, bản ảnh hiện trường, cùng các chứng cứ khác cơ quan điều tra thu thập đúng trình tự, thủ tục luật định đã đầy đủ cơ sở chứng minh hành vi phạm tội của các bị cáo. Cho nên, Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố các bị cáo ra trước phiên tòa và lời buộc tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Châu Đốc là có căn cứ, đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.
Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, hành vi buôn bán hàng cấm thuốc lá điếu nhập lậu với số lượng 4.000 bao của bị cáo C và hành vi vận chuyển 4.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu nói trên của các bị cáo S, D1, H1, T3, H3 đã xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước trong quản lý, sản xuất kinh doanh những mặt hàng cấm cụ thể là thuốc lá điếu nhập lậu do nước ngoài sản xuất nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện là ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất trong nước. Trong vụ án này thì vài trò bị cáo C là người buôn bán, S, D1 là người vận chuyển hàng hóa, H3, H1, T3 là người canh đường nên vài trò của từng bị cáo sẽ nhận mức án tương xứng với hành vi của mình. Do đó, cần có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[4] Xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
Xem xét tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo thuộc thành phần nhân dân lao động, học lực thấp, hiểu biết pháp luật có phần hạn chế; Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo S, D1, H1, T3, H3 được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự do đã đầu thú; bị cáo HI có người thân thích là người có công cách mạng; bị cáo C còn được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm, giải quyết vụ án”, bị cáo T3 được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự do tự nguyện khắc phục hậu quả. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, nên có xem xét cho các bị cáo khi lượng hình;
[5] Về hình phạt bổ sung: Đối với bị cáo C cần áp dụng hình phạt bổ sung với số tiền là 20.000.000 đồng, Các bị cáo còn lại đều không có nghề nghiệp ổn định, nên không áp dụng.
[6] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:
- Đối với số tiền Việt Nam 33.870.000đ đồng do bị cáo C sử dụng để mua bán thuốc lá điếu nhập lậu và 300.000 đồng do Trần Văn T3 thu lợi bất chính được người thân nộp thay; Xét tịch thu sung ngân sách Nhà nước;
- Đối với 4.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu bị thu giữ là vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;
- Tịch thu, tiêu hủy 02 tờ giấy tập học sinh có chữ và số viết mực xanh, đỏ; 01 áo khoác nhãn hiệu INDIAN.
- 02 xe mô tô biển số 67B1-X, 64E1-X chuyển Cơ quan Công an thành phố C để bàn giao Cơ quan có thẩm quyền xử lý trong vụ việc vi phạm hành chính để quyết định xử lý tịch thu phương tiện vận chuyển, buôn bán hàng cấm theo luật định;
- Đối với 01 xe mô tô biển số 67B1-X, do Nguyễn Thị C2 đứng tên chủ sở hữu nên cần trao trả lại bà C2, về 01 xuồng nhựa Composite, kích thước (0,7 x 4,9) m. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, lời khai của bị cáo c đều thừa nhận sử dụng để mua bán, vận chuyển thuốc lá điếu nhập lậu nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.
- Trả lại cho Nguyễn Văn H5 Anh xe môtô biển số 69 E1 - X.
[7] Các vấn đề khác:
Đối với người Campuchia tên Một, sinh sống tại Vương quốc Campuchia, có hành vi buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu, Cơ quan điều tra không điều kiện xác minh; Nguyễn Văn Hậu A1, Ngô Q, Nguyễn Văn H4 có hành vi buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu nhưng dưới mức quy định, không tiền án, tiền sự, Cơ quan điều tra chuyển xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp.
[8] Về án phí: Các Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm e khoản 2 Điều 190; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo Trần Văn C phạm tội: “Buôn bán hàng cấm”;
Xử phạt: Bị cáo Trần Văn C 05(năm) năm tù;
Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo Trần Văn C được tính kể từ ngày bị bắt tạm giam, ngày 06/10/2022 (ngày sáu, tháng mười, năm hai nghìn không trăm hai mươi hai).
Căn cứ điểm e khoản 2 Điều 191; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo Võ Hoàng S phạm tội: “Vận chuyển hàng cấm";
Xử phạt: Bị cáo Võ Hoàng S 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù;
Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo Võ Hoàng S được tính kể từ ngày bị bắt tạm giam, ngày 06/10/2022 (ngày sáu, tháng mười, năm hai nghìn không trăm hai mươi hai).
Căn cứ điểm e khoản 2 Điều 191; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo Phan Công D1 phạm tội: “Vận chuyển hàng cấm”;
Xử phạt: Bị cáo Phan Công D1 02(hai) năm 06(sáu) tháng tù;
Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo Phan Công D1 được tính kể từ ngày bị bắt tạm giam, ngày 06/10/2022 (ngày sáu, tháng mười, năm hai nghìn không trăm hai mươi hai).
Căn cứ điểm e khoản 2 Điều 191; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hảo H1 phạm tội: “Vận chuyển hàng cấm”;
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hảo H1 02(hai) năm tù;
Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo Nguyễn Hảo H1 được tính kể từ ngày bị bắt tạm giam, ngày 06/10/2022 (ngày sáu, tháng mười, năm hai nghìn không trăm hai mươi hai);
Căn cứ điểm e khoản 2 Điều 191; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo Trần Văn T3 phạm tội: “Vận chuyển hàng cấm”;
Xử phạt: Bị cáo Trần Văn T3 02(hai) năm tù;
Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo Trần Văn T3 được tính kể từ ngày bị bắt tạm giam, ngày 06/10/2022 (ngày sáu, tháng mười, năm hai nghìn không trăm hai mươi hai);
Căn cứ điểm e khoản 2 Điều 191; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38 và Điều 58 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H3 phạm tội: “Vận chuyển hàng cấm”;
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn H3 02(hai) năm tù;
Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo Nguyễn Văn H3 được tính kể từ ngày bị bắt tạm giam, ngày 06/10/2022 (ngày sáu, tháng mười, năm hai nghìn không trăm hai mươi hai);
Căn cứ Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.
- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 33.870.000 đồng;
- Tịch thu tiêu hủy 500 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Nelson, 250 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Bayon, 2.000 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Hero, 1.250 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Jet; 02 tờ giấy tập học sinh có chữ và số viết mực xanh, đỏ; 01 áo khoác nhãn hiệu INDIAN;
- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 xuồng nhựa Composite, kích thước (0,7 x 4,9)m;
- Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 300.000 đồng;
(Theo biên lai nộp tiền ngày 27/6/2023 của Trần Văn T6 với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Châu Đốc).
Trao trả cho Nguyễn Văn H5 Anh 01 chiếc xe biển số 69E1-X và Nguyễn Thị C2 01 chiếc xe biển số 67E1-X.
Đối với 02 chiếc xe biển số 67B1-X, 64E1-X của Ngô Q và Nguyễn Văn H4 cần chuyển Cơ quan Công an thành phố C để bàn giao cơ quan có thẩm quyền xử lý trong vụ việc vi phạm hành chính để quyết định xử lý tịch thu phương tiện vận chuyển, buôn bán hàng cấm theo luật định;
(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 21/6/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố C với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Châu Đốc).
Căn cứ các Điều 135, 136, 333 và Điều 337 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Buộc các bị cáo Trần Văn C, Võ Hoàng S (C3), Phan Công D1 (L), Nguyễn Hảo H1, Trần Văn T3 (T3 cùi), Nguyễn Văn H3 phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 75/2023/HS-ST
Số hiệu: | 75/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Châu Đốc - An Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/06/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về