Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 65/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 65/2022/HS-ST NGÀY 27/06/2022 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 27 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 35/2022/TLST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2022/QĐXXST–HS ngày 17 tháng 5 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 35/2022/QĐ-HSST ngày 30 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:

Trần Hữu T, tên gọi khác: Không; Sinh ngày 09 tháng 5 năm 1983 tại thành phố Đà Nẵng; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Số 05 H, tổ 04, phường N, quận H, thành phố Đ; Nghề nghiệp: Buôn bán. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: 12/12; Con ông: Trần Hữu Minh (sinh năm: 1954); con bà: Võ Thị Thanh T1 (sinh năm: 1960); Vợ: Nguyễn Hà Như L1 (sinh năm: 1980); Con: Có 01 con (sinh năm: 2010). Gia đình có 02 anh em (bị can là con thứ nhất).

Tiền án, tiền sự: Chưa.

Bị cáo hiện đang tại ngoại (có mặt)

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Nguyễn Hà Như L1; sinh ngày 21 tháng 6 năm 1980; nơi cư trú: Số 05 H, tổ 04, phường N, quận H, thành phố Đ. (vắng mặt) - Ông Trần Hữu Quốc K; sinh ngày 01 tháng 01 năm 1964 tại Đ; nơi cư trú: Số 572/4 đường 2/9, phường H, quận H, thành phố Đ. (vắng mặt) - Ông Trần Hữu Khánh Q; sinh ngày 01 tháng 01 năm 1964 tại Đ; nơi cư trú: Số 146/15 Y, phường H, quận H, thành phố Đ. (vắng mặt) - Bà Trần Thị Thanh V; sinh ngày 18 tháng 6 năm 1968 tại Đ; nơi cư trú: Số 16/6 H, phường H1, quận H, thành phố Đ. (vắng mặt) - Ông Nguyễn Anh T2; sinh ngày 17 tháng 7 năm 1987 tại Đ; nơi cư trú:

K223/H18/32B T, tổ 56, phường A, quận T, thành phố Đ. (vắng mặt) - Anh Nguyễn Văn Q1; sinh ngày 03 tháng 10 năm 1992 tại Nam Định; nơi cư trú: Tổ 10, phường A, quận T, thành phố Đ. (vắng mặt) - Bà Nguyễn Thị Thanh X; sinh ngày 13 tháng 2 năm 1989 tại Đ; nơi cư trú: Số 443 H, phường C, quận T, thành phố Đ. (vắng mặt) - Bà Lương Vũ Anh T3; sinh ngày 22 tháng 6 năm 1980 tại B; nơi cư trú: Số 2549/28/01/01E P, phường 7, quận 8, thành phố H. (vắng mặt) - Bà Huỳnh Thị C; sinh ngày 12 tháng 5 năm 1979 tại A; nơi cư trú: A7 B, phường N, quận 1, thành phố H. (vắng mặt) - Anh Trang Minh N; sinh ngày 01 tháng 7 năm 1992 tại S; nơi cư trú: Số 133/43/33 T, phường C, quận 1, thành phố H. (vắng mặt) - Anh Hồng Trí L; sinh ngày 11 tháng 5 năm 1993 tại H; nơi cư trú: 84T/8 lầu 3 T, phường C, quận 1, thành phố H. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 12 giờ 45 phút ngày 17/12/2021 tại 443 Hải Phòng, phường Chính Gián, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế, Công an quận Thanh Khê bắt quả tang Trần Hữu T đang nhận 03 thùng cartong bên trong chứa: 200 (hai trăm) bao thuốc lá điếu hiệu CHAPMAN, 300 (ba trăm) bao thuốc lá điếu hiệu MARLBORO, 49 (bốn mươi chín) hộp giấy cuốn điếu thuốc lá hiệu RAW. Theo T khai đây là số hàng thuốc lá và xì gà ngoại nhập do T mua lại từ một người phụ nữ có tên tài khoản Facebook là “Nguyễn Thị Hoa” (không rõ lai lịch) về để bán lại cho người khác kiếm lời. Thời điểm bắt quả tang, có Nguyễn Anh T2 (sinh năm: 1987, trú tại: Tổ 56, P. A, Q. T, TP. Đ) là nhân viên Công ty TNHH HP hoạt động trong lĩnh vực giao nhận hàng đang giao hàng cho T.

Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, Cơ quan CSĐT Công an quận Thanh Khê tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần Hữu T tại số 05 H, phường N, quận H thành phố Đ phát hiện, thu giữ thêm: 38 (ba mươi tám) cây thuốc lá nhãn hiệu SCOTT; 37 (ba mươi bảy) cây thuốc lá nhãn hiệu MARULA; 17 (mười bảy) cây thuốc lá nhãn hiệu 555 Blend Gold; 04 (bốn) cây thuốc lá nhãn hiệu 555 Blend Mandarin; 02 (hai) cây thuốc lá nhãn hiệu 555 Blend Signature; 45 (bốn mươi lăm) cây thuốc lá nhãn hiệu LUCKY STRIKE tím xanh; 03 (ba) cây thuốc lá nhãn hiệu LUCKY STRIKE xanh lá cây; 01 (một) cây thuốc lá nhãn hiệu Lucky Strike vàng;

05 (năm) cây thuốc lá nhãn hiệu LUCKY STRIKE tím; 08 (tám) cây thuốc lá nhãn hiệu CANYON; 08 (tám) cây thuốc lá nhãn hiệu MOND Dual Burst; 05 (năm) cây thuốc lá nhãn hiệu AURORA; 14 (mười bốn) cây thuốc lá nhãn hiệu CHAPMAN;

01 (một) cây thuốc lá nhãn hiệu MARLBORO; 03 (ba) cây thuốc lá nhãn hiệu CRAVEN “A”; 10 (mười) cây thuốc lá nhãn hiệu ESSE Change; 07 (bảy) cây thuốc lá nhãn hiệu ESSE Change Double; 06 (sáu) cây thuốc hiệu FORTE; 01 (một) cây thuốc lá nhãn hiệu HUANGHELOU; 02 (hai) cây thuốc là nhãn hiệu PINE Change;

04 (bốn) cây thuốc lá nhãn hiệu MOND Variance; 03 ( cây thuốc lá nhãn hiệu NANJING; 01 (một) cây thuốc lá nhãn hiệu RICHMAN Double Click; 01 (một) cây thuốc lá nhãn hiệu MOND Super Slims; 01 (một) cây thuốc lá nhãn hiệu CAPTAIN Black; 02 (hai) cây thuốc lá nhãn hiệu RICHMOND Cherry Superslim;

01 (một) cây thuốc lá nhãn hiệu Double Happiness; 01 (một) cây thuốc lá nhãn hiệu FURONGWANG.

Tổng cộng 231 cây thuốc lá, tương đương 2.310 bao thuốc lá điếu; 400 (bốn trăm) điếu xì gà nhãn hiệu VILLIGER mini; 20 (hai mươi) điếu xì gà nhãn hiệu VILLIGER Exclusivo USA; 25 (hai mươi lăm) điếu xì gà nhãn hiệu OLIVA; 10 (mười) điếu xì gà nhãn hiệu COHIBA Piramides Extra; 20 (hai mươi) điếu xì gà nhãn hiệu TABAK; 10 (mười) điếu xì gà nhãn hiệu T52; 30 (ba mươi) điếu xì gà nhãn hiệu SHADE; 20 (hai mươi) điếu xì gà nhãn hiệu MADURO; 20 (hai mươi) điếu xì gà nhãn hiệu SUN GROWN; 45 (bốn mươi lăm) điếu xì gà nhãn hiệu 5 Haff CORONA; 50 (năm mươi) điếu xì gà nhãn hiệu WILLEM II; 20 (hai mươi) điếu xì gà nhãn hiệu ROMEO Y JULIETA; 15 (mười lăm) điếu xì gà nhãn hiệu COHIBA Siglo VI; 50 (năm mươi) điếu xì gà nhãn hiệu PARTACAS; 10 (mười) điếu xì gà nhãn hiệu CAVALIER Geneve; 100 (một trăm) điếu xì gà nhãn hiệu COHIBA 10 Short; 250 (hai trăm năm mươi) điếu xì gà nhãn hiệu HANDELSGOLD; 15 (mười lăm) điếu xì gà QUINTERO; 50 (năm mươi) điếu xì gà BLACKSTONE; 10 (mười) điếu xì gà nhãn hiệu LARUTAN; 10 (mười) điếu gà nhãn hiệu KENTUKY Fire Cured; 10 (mười) điếu xì gà nhãn hiệu LIGA Privada; 10 (mười) điếu xì gà nhãn hiệu PARTAGAS; 50 (năm mươi) điếu xì gà nhãn hiệu BLACK&MILD. Tổng cộng 1.250 (một nghìn, hai trăm năm mươi) điếu xì gà các loại.

Trần Hữu T khai toàn bộ số thuốc lá và xì gà bị thu giữ như đã nêu trên là của T mua lại từ người có tên Facebook “Nguyễn Thị Hoa” về để cất giấu tại chỗ ở và bán lại để kiếm lời, T biết rõ là thuốc lá, xì gà nhập lậu và việc buôn bán thuốc lá nhập lậu là trái pháp luật nhưng vì muốn thu được lợi nhuận nên vẫn thực hiện. Từ ngày 30 tháng 4 năm 2021 đến ngày 17 tháng 12 năm 2021, T khai đã 03 lần mua thuốc lá, xì gà nhập lậu, cụ thể: Lần 1: Đặt mua ngày 30/4/2021, không nhớ số lượng cụ thể, nhận 01 thùng hàng sau vài ngày. Lần 2: Đặt mua cuối tháng 9/2021, không nhớ số lượng cụ thể, nhận 01 thùng hàng sau vài ngày. Lần 3: Đặt mua ngày 05/12/2021, không nhớ số lượng cụ thể, đến ngày 17/12/2021 khi T đang nhận hàng từ lần đặt mua này thì bị phát hiện, bắt quả tang. Từ ngày 30/4/2021 đến ngày 17/12/2021, T khai thu lợi từ việc bán thuốc lá điếu và xì gà nhập lậu là 2.500.000 đồng.

Kết luận giám định số 1641/C09C-Đ2 ngày 17/01/2022 của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng, xác định:

- 2.810 (hai nghìn tám trăm mười) bao thuốc lá gửi giám định đều là thuốc lá điếu thành phẩm; không phải là thuốc lá điếu được sản xuất tại Việt Nam (do nước ngoài sản xuất).

- 1.250 (một nghìn hai trăm năm mươi) điếu (dạng xì gà có màu nâu) gửi giám định đều là xì gà; tổng khối lượng là 3,49Kg (ba phẩy bốn chín kilogam); không phải sản phẩm thuốc lá được sản xuất, nhập khẩu hợp pháp để tiêu thụ tại Việt Nam.

* Vật chứng thu giữ:

- 01 (một) ĐTDĐ hiệu duawer (T dùng để liên hệ mua hàng thuốc lá, xì gà);

- 01 (một) điện thoại hiệu Mobell (T dùng đê liên lạc cá nhân);

- 03 thùng cát tông và 01 thùng xốp, bên trong chứa số thuốc lá và xì gà còn lại sau khi tiến hành giám định, tại mép dán của các thùng đều được niêm phong bằng giấy trắng, trên giấy có hình dấu đỏ của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng. Cụ thể, số thuốc lá còn lại sau giám định là: 1.730 (một nghìn, bảy trăm ba mươi) bao thuốc lá điếu các loại (loại 20 điếu/bao), gồm: 250 (hai trăm năm mươi) bao nhãn hiệu MARLBORO; 240 (hai trăm bốn mươi) bao nhãn hiệu CHAPMAN; 330 (ba trăm ba mươi) bao nhãn hiệu SCOTT; 270 (hai trăm bảy mươi) bao nhãn hiệu MARULA; 100 (một trăm) bao nhãn hiệu 555 Blend Gold;

400 (bốn trăm) bao nhãn hiệu LUCKY STRIKE tím xanh; 30 (ba mươi) bao nhãn hiệu CANYON; 30 (ba mươi) bao nhãn hiệu MOND Dual Burst; 50 (năm mươi) bao nhãn hiệu ESSE Change; 20 (hai mươi) bao nhãn hiệu ESSE Change Double;

10 (mười) bao nhãn hiệu FORTE. Số xì gà còn lại sau giám định là: 1.062 (một nghìn, không trăm sáu mươi hai) điếu xì gà các loại, gồm: 360 (ba trăm sáu mươi) điếu nhãn hiệu VILLIGER mini; 13 (mười ba) điếu nhãn hiệu VILLIGER Exclusivo USA; 19 (mười chín) điếu nhãn hiệu OLIVA; 05 (năm) điếu nhãn hiệu COHIBA Piramides Extra; 15 (mười lăm) điếu nhãn hiệu TABAK; 05 (năm) điếu nhãn hiệu T52; 25 (hai mươi lăm) điếu nhãn hiệu SHADE; 15 (mười lăm) điếu nhãn hiệu MADURO; 15 (mười lăm) điếu nhãn hiệu SUN GROWN; 40 (bốn mươi) điếu nhãn hiệu 5 Haff CORONA; 45 (bốn mươi lăm) điếu nhãn hiệu WILLEM II;

13 (mười ba) điếu nhãn hiệu ROMEO Y JULIETA; 08 (tám) điếu nhãn hiệu COHIBA Siglo VI; 45 (bốn mươi lăm) điếu nhãn hiệu PARTACAS; 04 (bốn) điếu nhãn hiệu CAVALIER Geneve; 90 (chín mươi) điếu nhãn hiệu COHIBA 10 Short;

225 (hai trăm hai mươi lăm) điếu nhãn hiệu HANDELSGOLD; 10 (mười) điếu nhãn hiệu QUINTERO; 45 (bốn mươi lăm) điếu nhãn hiệu BLACKSTONE; 05 (năm) điếu nhãn hiệu LARUTAN; 05 (năm) điếu nhãn hiệu KENTUKY Fire Cured; 05 (năm) điếu nhãn hiệu LIGA Privada; 05 (năm) điếu nhãn hiệu PARTAGAS; 45 (bốn mươi lăm) điếu nhãn hiệu BLACK&MILD.

- 01 (một) xe môtô hiệu Honda Vission, màu xanh, BKS 43C1-830.35.

- 49 (bốn mươi chín) hộp giấy cuốn điếu thuốc lá hiệu RAW.

(Các vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Thanh Khê theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29 tháng 4 năm 2022).

Tại Cáo trạng số 40/CT-VKS ngày 28 tháng 4 năm 2022 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Trần Hữu T về tội “Buôn bán hàng cấm” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố nhà nước giữ nguyên quan điểm đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào tính chất vụ án, nhân thân, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Trần Hữu T phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

Áp dụng: điểm b khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Trần Hữu T số tiền từ 300.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng - Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:

Tịch thu tiêu hủy:

- 03 thùng cát tông và 01 thùng xốp, bên trong chứa số thuốc lá và xì gà còn lại sau khi tiến hành giám định, được niêm phong bằng giấy trắng, trên giấy có hình dấu đỏ của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước gồm:

- 01 (một) ĐTDĐ hiệu duawer, 01 (một) điện thoại hiệu Mobell, (T dùng để liên hệ mua hàng thuốc lá, xì gà);

- 1/2 giá trị xe môtô hiệu Honda Vission, màu xanh, BKS 43C1-830.35 đây là tài sản chung của vợ chồng Trần Hữu T trong thời kỳ hôn nhân do Nguyễn Hà Như L1 (vợ T) đứng tên sở hữu, T dùng xe này để vận chuyển hàng cấm.

- 2.500.000 đồng (hai triệu năm trăm ngàn đồng) tiền thu lợi bất chính của Trần Hữu T.

- 49 (bốn mươi chín) hộp giấy cuốn điếu thuốc lá hiệu RAW, là vật chứng trong sự việc T vi phạm hành chính, Công an quận Thanh Khê đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với T và tịch thu số tang vật này là có cơ sở.

- Đối với người có tên Facebook “Nguyễn Thị Hoa”, có hành vi bán hàng bao gồm thuốc lá và xì gà nhập lậu cho T và 01 người phụ nữ (chưa rõ lai lịch) đến nhà T thu tiền hàng hóa bao gồm thuốc lá và xì gà nhập lậu mua về để bán lại. Hiện chưa xác định được lai lịch, địa chỉ nên cơ quan CSĐT Công an quận Thanh Khê tiếp tục điều tra, làm rõ, xử lý sau là có cơ sở.

- Đối với Nguyễn Anh T2 có hành vi giao hàng cho Trần Hữu T nhưng không biết bên trong thùng hàng mà T2 nhận rồi sau đó giao lại cho T là hàng cấm nên Cơ quan CSĐT Công an quận Thanh Khê không đề cập xử lý là có cơ sở;

- Đối với Nguyễn Văn Q1 là lái xe tải được Nguyễn Anh T2 thuê chở hàng về địa chỉ 443 Hải Phòng nhưng Q1 không biết bên trong là hàng cấm nên Cơ quan CSĐT Công an quận Thanh Khê không đề cập xử lý là có cơ sở.

- Đối với Nguyễn Hà Như L1 (vợ Trí) không tham gia buôn bán cũng như không biết hàng hóa T để trong nhà là hàng cấm nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê không đề cập xử lý là có cơ sở. Đối với Nguyễn Thị Thanh X, không biết việc buôn bán hàng cấm của Trần Hữu T nên Cơ quan CSĐT Công an quận Thanh Khê không đề cập xử lý là có cơ sở.

- Đối với Lương Nguyễn Anh T3, Huỳnh Thị C, Trang Minh N và Hồng Trí L là nhân viên của Công ty TNHH HP có liên quan đến việc nhận hàng từ một người không rõ lai lịch sau đó chuyển hàng đến cho Nguyễn Anh T2 để T2 giao lại cho Trần Hữu T. Tuy nhiên, T3, C, N, L đều không biết số hàng hóa bên trong là hàng cấm nên Cơ quan CSĐT Công an quận Thanh Khê không đề cập xử lý là có cơ sở.

- Đối với Trần Hữu Quốc K; Trần Hữu Khánh Q và Trần Thị Thanh V là đồng sở hữu hợp pháp nhà số 05 H, phường N, quận H, thành phố Đ. Ông K, ông Q, bà V không biết việc T buôn bán và cất giấu thuốc lá, xì gà nhập lậu tại nhà này nên Cơ quan CSĐT Công an quận Thanh Khê không đề cập xử lý là có cơ sở.

- Trần Hữu T có hành vi buôn bán hộp giấy cuốn điếu thuốc lá nhập lậu, cơ quan Công an quận Thanh Khê đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là có cơ sở.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Hữu T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã truy tố là đúng. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, Kiểm sát viên đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Trần Hữu T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mà cơ quan điều tra đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 12 giờ 45 phút ngày 17 tháng 12 năm 2021, Trần Hữu T đến tại địa chỉ số 443 đường Hải Phòng, phường Chính Gián, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng nhận thuốc lá điếu nhập lậu để đem về nhà cất giấu, bán lại kiếm lời thì bị Đội Cảnh sát thiệu tra tội phạm về Kinh tế, Công an quận Thanh Khê phát hiện và bắt quả tang. Số thuốc lá điếu và xì gà nhập lậu tại thời điểm bắt quả tang và qua khám xét nơi ở của T gồm có 2.810 bao thuốc lá điếu và 1.250 điếu xì gà các loại có trọng lượng 3,49 kg tương đương 174,5 bao tất cả thuốc lá điếu và xì gà là sản phẩm nhập lậu, không có hóa đơn, chứng từ chứng minh nguồn gốc, xuất xứ và không phải được sản xuất, nhập khẩu hợp pháp để tiêu thụ tại Việt Nam. Tổng số thuốc lá điếu nhập lậu mà Trần Hữu T buôn bán là 2.984,5 (hai nghìn, chín trăm tám mươi bốn phẩy năm) bao và thu lợi bất chính số tiền 2.500.000 đồng.

Hành vi trên của Trần Hữu T phạm vào tội "Buôn bán hàng cấm" tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự.

Như vậy Cáo trạng số 40/CT- VKS ngày 28 tháng 4 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội bị cáo thì thấy:

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi và nhận thức được rằng việc buôn bán thuốc lá điếu, xì gà nhập lậu là vi phạm pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm, gây ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe người tiêu dùng, ảnh hưởng đến uy tín và hoạt động kinh doanh hợp pháp của các tổ chức kinh tế, xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lý kinh tế, mà cụ thể là trật tự quản lý việc sản xuất buôn bán hàng hóa, chống hàng giả của các cơ quan quản lý nhà nước. Do không có ý thức chấp hành pháp luật, vì mục đích lợi nhuận bị cáo đã cố ý thực hiện.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến hoạt động quản lý kinh tế, bản thân bị cáo đang hành nghề kinh doanh nên cần áp dụng hình phạt chính là hình phạt tiền đối với bị cáo là thỏa đáng

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sư. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, thật sự ăn năn hối cãi thể hiện việc nộp lại khoản tiền thu lợi bất chính, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Từ những phân tích trên, xét lời luận tội của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng về tội danh, mức hình phạt là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về hình phạt bổ sung: không áp dụng [6] Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 03 thùng cát tông và 01 thùng xốp còn lại sau khi tiến hành giám định, được niêm phong bằng giấy trắng, trên giấy có hình dấu đỏ của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng gồm thuốc lá điếu và thuốc xì gà.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước gồm:

+ 01 (một) ĐTDĐ hiệu duawer, 01 (một) điện thoại hiệu Mobell, (T dùng để liên hệ mua hàng thuốc lá, xì gà);

+ 1/2 giá trị xe môtô hiệu Honda Vission, màu xanh, BKS 43C1-830.35 đây là tài sản chung của vợ chồng Trần Hữu T trong thời kỳ hôn nhân do Nguyễn Hà Như L1 (vợ Trí) đứng tên sở hữu, T dùng xe này để vận chuyển hàng cấm.

+ 2.500.000 đồng (hai triệu năm trăm ngàn đồng) tiền thu lợi bất chính của Trần Hữu T.

[7] Đối với 49 (bốn mươi chín) hộp giấy cuốn điếu thuốc lá hiệu RAW, là vật chứng trong sự việc T vi phạm hành chính, Công an quận Thanh Khê đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với T và tịch thu số tang vật này là có cơ sở.

[8] Người có tên Facebook “Nguyễn Thị Hoa”, có hành vi bán hàng bao gồm thuốc lá và xì gà nhập lậu cho T và 01 người phụ nữ (chưa rõ lai lịch) đến nhà T thu tiền hàng hóa bao gồm thuốc lá và xì gà nhập lậu mua về để bán lại. Hiện chưa xác định được lai lịch, địa chỉ nên cơ quan CSĐT Công an quận Thanh Khê tiếp tục điều tra, làm rõ, xử lý sau là có cơ sở.

[9] Nguyễn Anh T2 có hành vi giao hàng cho Trần Hữu T nhưng không biết bên trong thùng hàng mà T2 nhận rồi sau đó giao lại cho T là hàng cấm nên Cơ quan CSĐT Công an quận Thanh Khê không đề cập xử lý là có cơ sở;

[10] Nguyễn Văn Q1 là lái xe tải được Nguyễn Anh T2 thuê chở hàng về địa chỉ 443 Hải Phòng nhưng Q1 không biết bên trong là hàng cấm nên Cơ quan CSĐT Công an quận Thanh Khê không đề cập xử lý là có cơ sở.

[11] Nguyễn Hà Như L1 (vợ Trí) không tham gia buôn bán cũng như không biết hàng hóa T để trong nhà là hàng cấm nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê không đề cập xử lý là có cơ sở. Đối với Nguyễn Thị Thanh X, không biết việc buôn bán hàng cấm của Trần Hữu T nên Cơ quan CSĐT Công an quận Thanh Khê không đề cập xử lý là có cơ sở.

[12] Lương Nguyễn Anh T3, Huỳnh Thị C, Trang Minh N và Hồng Trí L là nhân viên của Công ty TNHH HP có liên quan đến việc nhận hàng từ một người không rõ lai lịch sau đó chuyển hàng đến cho Nguyễn Anh T2 để Tuấn giao lại cho Trần Hữu T. Tuy nhiên, T3, C, N, L đều không biết số hàng hóa bên trong là hàng cấm nên Cơ quan CSĐT Công an quận Thanh Khê không đề cập xử lý là có cơ sở. [13] Trần Hữu Quốc K; Trần Hữu Khánh Q và Trần Thị Thanh V là đồng sở hữu hợp pháp nhà số 05 H, phường N, quận H, thành phố Đ. Ông K, ông Q, bà V đều không biết việc T buôn bán và cất giấu thuốc lá, xì gà nhập lậu tại nhà này nên Cơ quan CSĐT Công an quận Thanh Khê không đề cập xử lý là có cơ sở.

[14] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Trần Hữu T phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

Xử phạt: Bị cáo Trần Hữu T số tiền 350.000.000 đồng (ba trăm năm mươi triệu đồng)

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy: 03 thùng cát tông và 01 thùng xốp còn lại sau khi tiến hành giám định, được niêm phong bằng giấy trắng, trên giấy có hình dấu đỏ của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng. Trong đó, số thuốc lá còn lại sau giám định là: 1.730 (một nghìn, bảy trăm ba mươi) bao thuốc lá điếu các loại (loại 20 điếu/bao), gồm: 250 (hai trăm năm mươi) bao nhãn hiệu MARLBORO; 240 (hai trăm bốn mươi) bao nhãn hiệu CHAPMAN; 330 (ba trăm ba mươi) bao nhãn hiệu SCOTT; 270 (hai trăm bảy mươi) bao nhãn hiệu MARULA; 100 (một trăm) bao nhãn hiệu 555 Blend Gold; 400 (bốn trăm) bao nhãn hiệu LUCKY STRIKE tím xanh; 30 (ba mươi) bao nhãn hiệu CANYON; 30 (ba mươi) bao nhãn hiệu MOND Dual Burst; 50 (năm mươi) bao nhãn hiệu ESSE Change; 20 (hai mươi) bao nhãn hiệu ESSE Change Double; 10 (mười) bao nhãn hiệu FORTE. Số xì gà còn lại sau giám định là: 1.062 (một nghìn, không trăm sáu mươi hai) điếu xì gà các loại, gồm:

360 (ba trăm sáu mươi) điếu nhãn hiệu VILLIGER mini; 13 (mười ba) điếu nhãn hiệu VILLIGER Exclusivo USA; 19 (mười chín) điếu nhãn hiệu OLIVA; 05 (năm) điếu nhãn hiệu COHIBA Piramides Extra; 15 (mười lăm) điếu nhãn hiệu TABAK;

05 (năm) điếu nhãn hiệu T52; 25 (hai mươi lăm) điếu nhãn hiệu SHADE; 15 (mười lăm) điếu nhãn hiệu MADURO; 15 (mười lăm) điếu nhãn hiệu SUN GROWN; 40 (bốn mươi) điếu nhãn hiệu 5 Haff CORONA; 45 (bốn mươi lăm) điếu nhãn hiệu WILLEM II; 13 (mười ba) điếu nhãn hiệu ROMEO Y JULIETA; 08 (tám) điếu nhãn hiệu COHIBA Siglo VI; 45 (bốn mươi lăm) điếu nhãn hiệu PARTACAS; 04 (bốn) điếu nhãn hiệu CAVALIER Geneve; 90 (chín mươi) điếu nhãn hiệu COHIBA 10 Short; 225 (hai trăm hai mươi lăm) điếu nhãn hiệu HANDELSGOLD;

10 (mười) điếu nhãn hiệu QUINTERO; 45 (bốn mươi lăm) điếu nhãn hiệu BLACKSTONE; 05 (năm) điếu nhãn hiệu LARUTAN; 05 (năm) điếu nhãn hiệu KENTUKY Fire Cured; 05 (năm) điếu nhãn hiệu LIGA Privada; 05 (năm) điếu nhãn hiệu PARTAGAS; 45 (bốn mươi lăm) điếu nhãn hiệu BLACK&MILD.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước gồm:

+ 01 (một) ĐTDĐ hiệu duawer, 01 (một) điện thoại hiệu Mobell, của Trần Hữu T.

+ 1/2 giá trị xe môtô hiệu Honda Vission, màu xanh, BKS 43C1-830.35 do Nguyễn Hà Như L1 đứng tên sở hữu (hiện bà Nguyễn Hà Như L1 đang quản lý).

+ 2.500.000 đồng (hai triệu năm trăm ngàn đồng) tiền thu lợi bất chính của Trần Hữu T.

(Các vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Thanh Khê theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29 tháng 4 năm 2022).

3. Về án phí: Căn cứ Điều 23 của Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về việc “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, sử dụng án phí, lệ phí Tòa án” của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Trần Hữu T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Án xử sơ thẩm công khai, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án ngày 27 tháng 6 năm 2022. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 65/2022/HS-ST

Số hiệu:65/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về