Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 56/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Y, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 56/2022/HSST NGÀY 16/05/2022 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 16 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Y - tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số: 44/2022/HSST, ngày 7 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2022/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:

Lê Văn Q - sinh ngày 15 tháng 2 năm 2000 tại xã T, huyện Y, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: xóm 4, xã T, huyện Y, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn C và bà Mai Thị T; vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: không. Tạm giữ: từ ngày 13/12/2021 đến ngày 19/12/2021, bị cáo tại ngoại, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Thông qua mạng xã hội facebook Lê Văn Q biết được một tài khoản facebook (không nhớ tên) đăng thông tin bán pháo. Khoảng 20 giờ ngày 11/12/2021 khi Q đang ngồi uống nước tại quán Bi-a Trà Chanh 2 M thuộc xóm L, xã H, huyện Y thì Q gặp một người đàn ông tự xưng tên là T. Tại đây người đàn ông tên T nói với Q ”Anh cần gấp 20 cấy em có kiếm được giúp anh không?” Ý của T là mua 20 bánh pháo nổ, thì Q trả lời ”Để em hỏi họ có không rồi em alo cho anh” thì người đàn ông tên T đồng ý. Lúc này Q gọi điện qua ứng dụng messenger đến tài khoản facebook đã rao bán pháo trên mạng thì có một người đàn ông nghe máy. Q đặt mua của người này 20 bánh pháo nổ loại 36 quả. Hai bên thỏa thuận số tiền bán pháo là 16.000.000 đồng, người này sẽ gửi xe khách vận chuyển pháo cho Q với tiền cước là 1.500.000 đồng( một triệu năm trăm nghìn đồng) thì Q đồng ý. Hai bên thống nhất sau khi nhận hàng sẽ kiểm tra và chuyển khoản thanh toán tiền cho người này qua tài khoản ngân hàng. Sau khi đặt hàng mua pháo của người đàn ông qua mạng xã hội xong thì Q thỏa thuận với T ( người đặt mua pháo của Q trước đó) mỗi bánh pháo là 950.000 đồng. Tổng số tiền T trả cho Q là 19.000.000 đồng. Khi nào có pháo thì hai bên sẽ giao dịch với nhau tại quán cà phê Trà chanh 2M tại xóm L, xã H, huyện Y. Đến 8 giờ ngày 13/12/2021 người đàn ông bán pháo cho Q sử dụng tài khoản messenger gọi đến tài khoản messenger có tên Q của Q hỏi địa chỉ giao hàng thì hai bên thống nhất sẽ giao tại cầu Lồi xã D, huyện D. Sau đó Q điều khiển xe mô tô BKS 37P1-42411 đi đến cầu Lồi để nhận pháo. Tại đây Q nhận được từ xe khách một thùng xốp màu trắng được dán kín bằng băng dính màu vàng. Sau đó Q xóa ứng dụng tin nhắn của người này khỏi hộp thư tin nhắn và chờ khi nào người này nhắn số tài khoản cho Q thì Q sẽ chuyển tiền. Sau khi nhận được pháo Q gọi điện cho T đến quán trà chanh 2 M để nhận, khoảng 10 giờ cùng ngày Q chở pháo đến tiệm trà chanh 2 M thì bị tổ công tác công an huyện Y phát hiện bắt quả tang.Tại biên bản mở niêm phong đã xác định khối lượng vật chứng (nghi là pháo thu giữ của Lê Văn Q có khối lượng là 28 kg.

Tại kết luận giám định số 404/KL-PC09 ngày 18/12/2021 của phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nghệ An xác định: Các mẫu vật ký hiệu M1, M2, M3 thu giữ của Lê Văn Q gửi tới giám định đều là pháo, đều thuộc loại pháo nổ” Tại bản cáo trạng số 53/VKS-HS ngày 05/4/2022 của VKSND huyện Y đã truy tố Lê Văn Q về tội "Buôn bán hàng cấm" quy định tại điểm c khoản 1 điều 190 BLHS.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử Căn cứ: điểm c khoản 1 điều 190; điểm i, s, khoản 1, khoản 2 điều 51; điều 65 BLHS xử phạt Lê Văn Q từ 20-24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 40- 48 tháng tính từ ngày tuyên án, về tội “Buôn bán hàng cấm”.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo do bị cáo có hoàn cảnh khó khăn Về vật chứng: Đề nghị Tịch thu tiêu hủy 23,8kg số pháo còn lại sau khi đã lấy đi 3 khối hình hộp pháo có tổng khối lượng 4,2kg. Tịch thu hóa giá sung ngân sách nhà nước chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 pro thu giữ của Lê Văn Q Bị cáo không có tranh luận gì, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Căn cứ buộc tội: Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, điều tra viên; Viện kiểm sát, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên toà, bị cáo Lê Văn Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp lời khai trong quá trình điều tra và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 10 giờ ngày 13/12/2021 tại xóm L, xã H, huyện Y, tỉnh Nghệ An khi Lê Văn Q đang có hành vi chở 20 (hai mươi) khối hình hộp pháo nổ, loại 36 quả có tổng khối lượng 28 kg (hai mươi tám kilogam) đi bán thì bị công an huyện Y phát hiện bắt quả tang.

Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Y truy tố bị cáo về tội “ Buôn bán hàng cấm” theo điểm c khoản 1 điều 190 là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền của nhà nước trong quản lý, sản xuất, kinh doanh một số loại hàng cấm, vi phạm nghị định của chính phủ về việc cấm sản xuất, mua bán, vận chuyển, lưu thông trên thị trường, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn. Bị cáo biết rõ việc buôn bán pháo nổ là hành vi vi phạm pháp luật nhưng do tư lợi cá nhân nên vẫn thực hiện.Vì thế, cần phải xử lý bằng biện pháp hình sự mới có tác dụng giáo dục cải tạo và phòng ngừa chung.

[2] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết giảm nhẹ: quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Gia đình bị cáo có bác ruột là người có công với nhà nước được tặng bằng khen, gia đình bị cáo gương mẫu tự nguyện hiến đất làm đường xây dựng nông thôn mới trên địa bàn, bản thân bị cáo trong quá trình sinh hoạt Đoàn tại địa phương có đóng góp trong hoạt động phòng chống covid trên địa bàn.

Về tình tiết tăng nặng: bị cáo không có tình tiết tăng nặng Xét bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng, nên không nhất thiết phải cách ly khỏi đời sống xã hội mà xử phạt bị cáo hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo, tiếp tục giao cho gia đình và chính quyền địa phương quản lý giám sát như đề nghị của đại diện viện kiểm sát cũng là phù hợp.

[3] Về hình phạt bổ sung: Lẽ ra phải áp dụng phạt tiền là hình phạt bổ sung đối với bị cáo nhưng xét bị cáo chưa lập gia đình, không có việc làm ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn, nên cần xem xét miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Trong vụ án này có người đàn ông bán pháo qua face book và người đàn ông tên T đặt mua pháo của Lê Văn Q (theo lời khai của Lê Văn Q), hiện chưa xác định được đối tượng nhân thân lai lịch địa chỉ nên chưa có cơ sở xử lý. [4] Về xử lý vật chứng:

+ Đối với 23,8 kg là số pháo còn lại đã được niêm phong theo quy định. Xét không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy + Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda loại xe Wave an pha màu trắng, BKS 37P1- 42411. Qua điều tra xác định chiếc xe này là của anh Chu Văn Q trú tại xóm 4 xã T, khi Q sử dụng xe để chở pháo thì anh Q không biết nên cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho anh Q là có đúng quy định.

+ Đối với chiếc điện thoại di động Iphone 13pro màu trắng, số imei 3548432096140830 gắn sim số 0858437567 thu giữ của Lê Văn Q, xét đây là công cụ dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu hóa giá sung ngân sách nhà nước [5] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: điểm c khoản 1 điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; khoản 1, khoản 2 điều 65 Bộ luật Hình sự xử phạt: Lê Văn Q 21 (hai mươi mốt) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 42 (bốn mươi hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, về tội “Buôn bán hàng cấm”.

Giao bị cáo cho UBND xã T, huyện Y, tỉnh Nghệ An giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách án treo Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1, điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 điều 106 BLTTHS:

Tịch thu tiêu hủy 23,8 kg là số pháo còn lại đã được niêm phong theo quy định (Số pháo nêu trên hiện đang tạm gửi tại kho tang vật của Công an huyện Y. Công an huyện Y có trách nhiệm chuyển giao cho Chi cục Thi hành án huyện Y khi án có hiệu lực pháp luật để Chi cục Thi hành án huyện Y tiêu hủy theo quy định).

Tịch thu hóa giá sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động Iphone 13pro màu trắng, số imei 3548432096140830 gắn sim số 0858437567 thu giữ của Lê Văn Q (vật chứng hiện đang tạm gửi tại kho tang vật công an huyện Y. Công an huyện Y có trách nhiệm giao cho chi cục Thi hành án dân sự huyện Y để xử lý theo quy định) Án phí: Căn cứ khoản 2 điều 136 BLTTHS; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Toà án cấp phúc thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

323
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 56/2022/HSST

Số hiệu:56/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về